có ảnh hưởng đến kết quả của tổ chức, các mối quan hệ này dựa trên sự tin tưởng, có đi có lại.
Theo Bankfield (1958), trích trong Xie Wenjing (2013), vốn xã hội sẽ ảnh hưởng đến cả hành vi của người vay và người cho vay (ngân hàng). Trong đất nước có vốn xã hội cao, người lãnh đạo hành xử đúng chuẩn mực đạo đức và có xu hướng lãnh đạo doanh nghiệp hạn chế hành vi vi phạm đạo đức như gian lận, thì rủi ro các ngân hàng đối mặt với vi phạm hợp đồng ít hơn (ảnh hưởng khả năng thu hồi nợ của ngân hàng).
Obey Dzomonda và các tác giả (2017), qua khảo sát 103 doanh nghiệp vừa và nhỏ bằng phương pháp lấy mẫu ngẫu nhiên. Các tác giả phân tích dữ liệu bao gồm thống kê mô tả, sự tương quan và phân tích hồi quy Peason. Mục đích của bài viết nhằm đánh giá tác động của phong cách lãnh đạo đối với định hướng kinh doanh và sự đổi mới của doanh nghiệp. Kết quả cho thấy có mối quan hệ tích cực đáng kể giữa phong cách lãnh đạo và các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Để đẩy mạnh phát triển hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, phụ thuộc rất lớn vào người lãnh đạo, đặc biệt là phong cách lãnh đạo linh hoạt của họ. Người quản lý phải làm sao để đáp ứng các nhu cầu khác nhau của nhân viên, vừa phát huy được sức mạnh của cá nhân và tập thể trong hoạt động nhóm và hoạt động sản xuất kinh doanh. Với phong cách lãnh đạo phù hợp sẽ giúp doanh nghiệp tận dụng được các cơ hội kinh doanh, vượt qua các khó khăn, thách thức để phát triển bền vững.
Phong cách lãnh đạo là kết quả của mối quan hệ giữa cá nhân và sự kiện, nó được quy định bởi đặc điểm nhân cách của nhà quản lý. Phong cách lãnh đạo của các nhà lãnh đạo phương Đông có đặc điểm khác biệt nổi bật so với phong cách quản lý của các nhà lãnh đạo phương Tây là việc xây dựng và duy trì những mối quan hệ xã hội tốt đẹp, hài hoà giữa những người dưới quyền và phát huy tinh thần đoàn kết thân ái với nhau.
Tương tự là quan điểm của Anne Irungu & Robert Arasa (2017), trong bài nghiên cứu để đánh giá các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Nairobi, Kenya. Nghiên cứu sử dụng dữ liệu chính đã được thu
thập từ các nhà quản lý hàng đầu của 100 doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Nairobi, Kenya. Kết quả phân tích tương quan cho thấy để nâng cao khả năng cạnh tranh vững chắc của doanh nghiệp cần bắt nguồn từ chiến lược lãnh đạo hiệu quả và phát huy các nguồn lực sẵn có từ các mạng lưới quan hệ xã hội của nhà lãnh đạo.
Nhìn chung thì các tác giả Cialdini & các cộng sự (2001), Paré & các cộng sự (2008), cùng với các tác giả McCallum & O'Connell (2009); Truss & Gill (2009); Wharton & Brunetto (2009), có đề cập đến vốn xã hội của lãnh đạo như là chất lượng của các mạng lưới quan hệ của lãnh đạo: tình hữu nghị, hỗ trợ lẫn nhau, quyền lực, sự công nhận của xã hội và sự cam kết với các chủ thể như bạn bè, nhà tư vấn, chính quyền, cơ quan truyền thông.
Tại sao các mối quan hệ, nhất là mối quan hệ cá nhân lại được coi trọng như vậy? nhất là ở Việt Nam, điều này có thể tìm lời lý giải từ Lý thuyết thể chế: sử dụng quan hệ cá nhân để đối phó với sự bất định của môi trường thể chế. Hoặc sử dụng Lý thuyết mạng lưới quan hệ và lòng tin: mạng lưới quan hệ giúp các bên có thông tin và niềm tin với nhau, niềm tin dựa trên cảm xúc có thể giúp các bên hợp tác trong những dự án có nhiều yếu tố bất định (Nguyễn Văn Thắng 2015). Đã có những nghiên cứu áp dụng kinh tế học thể chế tại Việt Nam để nhấn mạnh tầm quan trọng của các mối quan hệ xã hội, điển hình như:
Có thể bạn quan tâm!
- Đối Tượng, Phạm Vi Và Phương Pháp Nghiên Cứu Đối Tượng Nghiên Cứu:
- Khái Niệm Vốn Xã Hội Trong Ngân Hàng
- Tính Chất Cơ Bản Của Vốn Xã Hội Trong Hoạt Động Của Các Ngân Hàng Thương Mại
- Các Hoạt Động Cơ Bản Của Ngân Hàng Thương Mại
- Khung Phân Tích Mối Liên Hệ Giữa Vốn Xã Hội Với Các Hoạt Động Của Nhtm
- Phương Pháp Kiểm Định Thang Đo Cho Nghiên Cứu Điển Hình
Xem toàn bộ 192 trang tài liệu này.
Nghiên cứu của Lê Thị Bích Ngọc, Venkatesh và Nguyễn Văn Thắng (2006) về các giải pháp giúp các doanh nghiệp vừa và nhỏ tăng tiếp cận đối với vốn ngân hàng. Áp dụng lý thuyết thể chế, các tác giả luận giải mức độ tiếp cận vốn ngân hàng của doanh nghiệp vừa và nhỏ phụ thuộc vào “sự chấp nhận” của xã hội. Do đó, biện pháp giúp làm tăng sự chấp nhận của xã hội sẽ làm tăng tiếp cận vốn ngân hàng. Các biện pháp được đề xuất gồm thực hành quản lý tốt, chú trọng các quan hệ xã hội bao gồm cả quan hệ của bản thân lãnh đạo…
Nghiên cứu của Lê Thị Bích Ngọc và Nguyễn Văn Thắng (2009) về việc sử dụng mạng lưới quan hệ đối với việc tiếp cận vốn ngân hàng. Nghiên cứu này chú trọng vào các mối quan hệ của lãnh đạo ( quan hệ với bạn bè, dòng họ, đối tác kinh doanh và các hiệp hội).
Nghiên cứu của Huỳnh Thanh Điền (2011) chỉ ra vai trò của mối quan hệ của lãnh đạo trong việc tiếp cận quỹ đất và các dự án, đem lại cơ hội kinh doanh cho doanh nghiệp bất động sản. Ngoài ra mối quan hệ của lãnh đạo cũng giúp doanh nghiệp thuận lợi trong hoạt động phân phối sản phẩm, chính uy tín của người lãnh đạo tạo niềm tin nơi khách hàng qua đó thúc đẩy hoạt động bán hàng của doanh nghiệp hiệu quả hơn.
Có thể nói, đặc trưng của vốn xã hội của lãnh đạo chính là chất lượng và cấu trúc mạng lưới, nhưng ở các nghiên cứu trước, chúng ta chưa thấy có sự tích hợp giữa hai yếu tố này để xây dựng thang đó vốn xã hội của lãnh đạo.
Từ lược khảo các lý thuyết trước liên quan vốn xã hội của lãnh đạo, có thể rút ra quan niệm vốn xã hội của lãnh đạo ngân hàng là nguồn lực của các chủ thể (cá nhân, nhóm, tổ chức) tồn tại trong mạng lưới quan hệ với lãnh đạo dựa trên sự tín cẩn, chia sẻ, hỗ trợ và kỳ vọng lẫn nhau.
Thành phần cơ bản của vốn xã hội của lãnh đạo ngân hàng
Vốn xã hội của lãnh đạo ngân hàng được đề cập đến như là mạng lưới và chất lượng các mối quan hệ của lãnh đạo ngân hàng.
Nhóm tác giả Tushman & O’Reilly III (1997), đã chỉ ra thành phần trong mạng lưới quan hệ của lãnh đạo gồm dòng họ, bạn bè, đối tác kinh doanh, đồng nghiệp, cơ quan báo chí, quan chức/ nhân viên thuộc các cơ quan quản lý nhà nước, cơ quan nghiên cứu, các câu lạc bộ.
Cialdini & các cộng sự (2001), Acquaah (2007, 2011), Paré & các cộng sự (2008), McCallum & O'Connell (2009); Truss & Gill (2009); Wharton & Brunetto (2009), có đề cập đến vốn xã hội của lãnh đạo như là chất lượng của các mạng lưới quan hệ của lãnh đạo như: tình hữu nghị, hỗ trợ lẫn nhau, quyền lực, sự công nhận của xã hội và sự cam kết với các chủ thể như bạn bè, nhà tư vấn, chính quyền, cơ quan truyền thông.
2.1.4.2 Vốn xã hội bên ngoài ngân hàng
Đề cập đến vốn xã hội bên ngoài ngân hàng, có thể tổng kết một vài nghiên cứu tiêu biểu như sau:
Landry & cộng sự (2000), Yang & các cộng sự (2011) trong nghiên cứu của mình về vốn xã hội (xem xét trên khía cạnh nhận thức về tầm quan trọng và sự tín cẩn) tác động đến sự cải tiến của doanh nghiệp ở Canada. Kết quả chỉ ra rằng những doanh nghiệp càng có nhận thức về tầm quan trọng của mạng lưới quan hệ với khách hàng, nhà cung cấp, đơn vị tư vấn, công ty trong cùng tập đoàn, hệ thống phân phối thì động lực cải tiến càng lớn. Tuy nhiên, các khía cạnh khác của chất lượng mạng lưới như hỗ trợ và chia sẻ thì chưa được đề cập đến. Ngoài ra, thang đo sử dụng trong nghiên cứu chỉ được kiểm định tính nhất quán, không được kiểm định về giá trị hội tụ và phân biệt.
Altman & Taylor (1973); Feld (1981) trích trong Hongseok & ctg (2004), đã chỉ ra mối quan hệ bên ngoài doanh nghiệp rất quan trọng như mối quan hệ với các công ty trong cùng tập đoàn, đơn vị tư vấn thậm chí mối quan hệ với đối thủ cạnh tranh. Do mối quan hệ bên ngoài có thể giúp doanh nghiệp tiếp cận các thông tin quan trọng về chiến lược trong tương lai để doanh nghiệp có các chiến lược chuẩn bị tốt, và cũng nhờ mối quan hệ bên ngoài doanh nghiệp giúp hoạt động đầu vào và đầu ra được trôi chảy, thuận lợi.
Theo Burt (1992) thấy rằng mạng lưới vốn xã hội gồm bạn bè, đồng nghiệp và các bên liên quan để thông qua mối quan hệ này mà các cá nhân có thể nhận được cơ hội sử dụng lợi thế từ mạng lưới xã hội để đảm bảo lợi ích của họ và từ đó phục vụ lợi ích của tổ chức.
Theo nghiên cứu của Kaasa (2007), vốn xã hội bên ngoài gồm mối quan hệ với bạn bè, đồng nghiệp, người thân, hàng xóm…và vốn xã hội bên trong gồm quan hệ giữa các cá nhân trong tổ chức đều hỗ trợ cho việc trao đổi thông tin.
Theo Levine (1997); Vega – Redondo (2006), để có được nguồn thông tin hữu ích hỗ trợ cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, có thể thu được những thông tin này thông qua vốn xã hội từ mạng lưới bên ngoài doanh nghiệp.
Trong một nghiên cứu Scupola & các cộng sự (2009) đã cho thấy vốn xã hội từ mạng lưới bên ngoài tác động có ý nghĩa đến hiệu suất và khả năng tiếp cận thị trường. Trong cùng một khu vực, nhờ các mối quan hệ của công ty với các chủ thể,
đối tác kỳ vọng mang lại cơ hội phát triển kinh doanh, tiếp cận được các đối tác mới và thu thập được các thông tin có liên quan đến công ty từ đó có thể tiếp nhận được sự tư vấn giải quyết các vấn đề tài chính và hỗ trợ trong quá trình kinh doanh.
Theo Chung và cộng sự (2000), trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt giữa các ngân hàng, tồn tại bằng chứng rằng việc lựa chọn ngân hàng cung cấp dịch vụ tài chính để liên kết với các doanh nghiệp trong việc cung ứng sản phẩm cho khách hàng, phụ thuộc vào mối quan hệ (vốn xã hội) giữa các bên, mở ra những cơ hội kinh doanh mới. Do đó, vốn xã hội nên được quan tâm đối với bất kỳ nhà cung cấp dịch vụ tài chính nào nếu muốn thu hút các đối tác liên doanh, tìm kiếm các cơ hội đầu tư. Tương tự là quan điểm của các tác giả Shane & Cable (2002); Mollick (2014); Zheng và cộng sự (2014); Hsu & Lin (2008), các tác giả đã khẳng định vai trò của vốn xã hội bên ngoài trong việc hỗ trợ thu hút các liên doanh mới đem lại cơ hội kinh doanh cho tổ chức.
Portes (2000, trang 45), nhờ kết nối với các mạng lưới quan hệ bên ngoài ngân hàng và mở rộng mối quan hệ mà cơ hội cho các ý tưởng và hành vi có thể được hình thành, nâng cao khả năng sáng tạo để tạo lợi thế riêng cho mình. Các mối quan hệ không tự động đến mà phải thông qua chiến lược và quyết định đầu tư vốn xã hội của ngân hàng.
Svendsen, Boutilier và Wheeler (2003) trích dẫn trong Boutilier (2009, trang
44) cho rằng mối liên kết tốt với các mạng lưới bên ngoài doanh nghiệp sẽ mang lại những lợi ích cho doanh nghiệp như chi phí vốn thấp hơn, giúp tiết kiệm chi phí tuyển dụng, nâng cao lòng trung thành của khách hàng, đặc biệt với địa phương, chính quyền các cấp giúp phê chuẩn quyết định nhanh hơn để mở rộng hoạt động kinh doanh.
Adler & Kwon (2002, trang 19); Boutilier (2009, trang 60-62), nghiên cứu cả vốn xã hội bên trong và bên ngoài. Đối với vốn xã hội bên ngoài, các tác giả chủ yếu nhấn mạnh mối quan hệ với khách hàng sẽ mang lại những lợi ích cho doanh nghiệp trong quá trình kinh doanh.
Nghiên cứu của Najarian & Cabrera (2013), James S.Boles (2011), đã nghiên cứu và phân tích mối quan hệ bên trong và bên ngoài công ty ảnh hưởng đến hiệu suất bán hàng của công ty. Nghiên cứu cũng chỉ ra ngoài mối quan hệ bên trong thì mạng lưới các mối quan hệ xã hội bên ngoài như quan hệ giữa các hãng trong cùng công ty tạo sự hỗ trợ nhau trong việc chuyển giao kiến thức, từ đó giúp hoạt động bán hàng hiệu quả hơn.
Nghiên cứu của Joanna Wyrwa (2014), khi nghiên cứu về vốn xã hội, đã chỉ ra mạng lưới vốn xã hội bên ngoài doanh nghiệp gắn liền với các hoạt động (liên quan tới các chủ thể như khách hàng, nhà cung cấp, đối tác kinh doanh); môi trường (thể chế, đối thủ cạnh tranh, quan chức Nhà nước, truyền thông; và thị trường (khách hàng hiện tại, khách hàng tiềm năng, các câu lạc bộ), vốn xã hội bên ngoài giúp thúc đẩy sự hợp tác giữa các doanh nghiệp, giúp phát triển cộng đồng.
Crystal Holmes Zamanian and Lisa Åström (2014), khi nghiên cứu về việc đầu tư vốn xã hội của ngân hàng đã chỉ ra việc xây dựng mối quan hệ với các bên từ các ngành khác nhau có ảnh hưởng sâu sắc đối với các ngân hàng như tìm hiểu thêm các khía cạnh trong ngành của khách hàng để có thể phục vụ khách hàng tốt hơn. Đồng thời các tác giả cũng đề cập đến mạng lưới bên ngoài ngân hàng gồm khách hàng, đối tác, chính quyền và truyền thông.
Chuanhui Liao và các tác giả (2015), phân tích mối quan hệ giữa vốn xã hội bên ngoài ảnh hưởng đến hiệu suất huy động vốn từ cộng đồng. Thông qua khảo sát dữ liệu từ 862 dự án của Trung Quốc, tác giả đã chứng minh vốn xã hội bên ngoài có tác động đáng kể đến hiệu suất huy động vốn từ cộng đồng và khuyến nghị để cải thiện hiệu suất huy động vốn cộng đồng cần tận dụng tốt cơ chế xây dựng vốn xã hội trong cộng đồng.
Nghiên cứu của Farheen Javed, Sadia Cheema (2017), đã nhấn mạnh vai trò của mạng lưới bên ngoài tiêu biểu là vai trò của lòng trung thành của khách hàng để cải thiện hiệu quả và xây dựng mối quan hệ tốt hơn với khách hàng tiềm năng. Mục đích của nghiên cứu là khám phá các biện pháp tích cực để nâng cao lòng trung thành của khách hàng trong lĩnh vực dịch vụ. Qua khảo sát dữ liệu, sử dụng thang đo Likert
và phần mềm SPSS24, kết quả cho thấy doanh nghiệp cần nâng cao sự hài lòng, nhận thức của khách hàng và sử dụng CRM để quản lý quan hệ khách hàng, từ đó xây dựng và củng cố lòng trung thành của khách hàng hiện hữu.
Anne Irungu & Robert Arasa (2017), trong bài nghiên cứu để đánh giá các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Nairobi, Kenya. Nghiên cứu sử dụng dữ liệu chính đã được được thu thập từ các nhà quản lý hàng đầu của 100 doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Nairobi, Kenya. Kết quả phân tích tương quan cho thấy muốn cạnh tranh bền vững, doanh nghiệp cần xây dựng và đảm bảo liên lạc thường xuyên với khách hàng của họ. Mạng lưới khách hàng là nguồn lực quan trọng để doanh nghiệp khai thác và thu hút khách hàng tiềm năng.
Nhìn chung các tác giả đã đề cập đến vốn xã hội bên ngoài doanh nghiệp là chất lượng các mối quan hệ giữa doanh nghiệp với các chủ thể trong mạng lưới chiều ngang (khách hàng, nhà phân phối, nhà cung cấp, các doanh nghiệp trong cùng tập đoàn, đơn vị tư vấn, nghiên cứu, các đối thủ cạnh tranh trong cùng ngành) và mạng lưới chiều dọc (chính quyền các cấp và các công ty mẹ - con trong cùng tập đoàn).
Nghiên cứu của tác giả Huynh Thanh Dien & Nguyen Trong Hoai (2012) đã tích hợp hai yếu tố chất lượng và cấu trúc mạng lưới để xây dựng được thang đo vốn xã hội bên ngoài doanh nghiệp ngành bất động sản, đồng thời kết quả nghiên cứu của các tác giả này cũng đã chỉ ra tác động của vốn xã hội bên ngoài đến hoạt động đầu vào, sản xuất và đầu ra của doanh nghiệp. Tuy nhiên thang đo này chưa hoàn toàn phù hợp để đo lường cho ngành ngân hàng.
Nghiên cứu của S.J.Appold & Nguyen Quy Thanh (2004), khảo sát 447 doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt Nam, nghiên cứu đã chỉ ra các mạng lưới quan hệ bên ngoài của doanh nghiệp (vốn xã hội bên ngoài) là một nguồn lực tiềm ẩn nhưng có tác động ý nghĩa và thực tế đến hoạt động của doanh nghiệp. Trong môi trường mà nguồn vốn xã hội này càng nhiều thì khả năng tạo ra nguồn lực lớn cho doanh nghiệp trong hoạt động kinh doanh càng tăng.
Nghiên cứu của Huỳnh Thanh Điền (2011), khảo sát 216 doanh nghiệp bất động sản ở Việt Nam, kết quả nghiên cứu đã cho thấy vốn xã hội bên ngoài có ảnh
hưởng đến các hoạt động của doanh nghiệp bất động sản. Nghiên cứu cũng chỉ ra bên cạnh hiệu ứng tích cực của mạng lưới quan hệ này mạng lại cho doanh nghiệp và nền kinh tế còn tiềm ẩn hiệu ứng tiêu cực, do đó cần có giải pháp để hạn chế hiệu ứng tiêu cực này.
Từ lược khảo các lý thuyết trước liên quan vốn xã hội bên ngoài ngân hàng, có thể rút ra quan niệm vốn xã hội bên ngoài ngân hàng là nguồn lực của các chủ thể (cá nhân, nhóm, tổ chức) tồn tại trong mạng lưới quan hệ với chính ngân hàng dựa trên sự tín cẩn, chia sẻ, hỗ trợ và kỳ vọng lẫn nhau.
Thành phần cơ bản của vốn xã hội bên ngoài ngân hàng
Vốn xã hội bên ngoài ngân hàng được đề cập đến như là mạng lưới và chất lượng các mối quan hệ bên ngoài của ngân hàng.
Nghiên cứu của Kaasa (2007), đã chỉ ra vốn xã hội bên ngoài gồm mối quan hệ với bạn bè, đồng nghiệp, người thân, hàng xóm.
Các tác giả Landry & các cộng sự (2000); Jansen & các cộng sự (2011) và Yang & các cộng sự (2011), trong các nghiên cứu của mình đã chỉ ra thành phần trong mạng lưới quan hệ bên ngoài của doanh nghiệp theo chiều ngang gồm khách hàng, nhà cung cấp, nhà đầu tư, các doanh nghiệp trong cùng tập đoàn, đơn vị tư vấn, các câu lạc bộ, các đối thủ cạnh tranh trong cùng ngành; và theo chiều dọc gồm các công ty mẹ - con trong cùng tập đoàn và chính quyền các cấp. Các nghiên cứu này mới dừng lại ở việc đặt ra những câu hỏi để đo lường chất lượng chung của mạng lưới quan hệ của doanh nghiệp với các chủ thể bên ngoài, chưa xây dựng được thang đo đánh giá chất lượng mối quan hệ của từng chủ thể trong mạng lưới.
Joanna Wyrwa (2014) có đề cập đến vốn xã hội bên ngoài doanh nghiệp như là chất lượng của các mạng lưới quan hệ bên ngoài doanh nghiệp gắn liền với các hoạt động (liên quan tới các chủ thể như khách hàng, nhà cung cấp, đối tác kinh doanh); môi trường (thể chế, đối thủ cạnh tranh, quan chức Nhà nước, truyền thông); và thị trường (khách hàng hiện tại, khách hàng tiềm năng, các câu lạc bộ)