chừng như khó vượt qua – ví dụ, một vấn đề học tập nan giải, một nội dung học tập thiếu tài liệu, một hướng suy nghĩ bị bế tắc… Trong những trường hợp đó, sự hỗ trợ của bạn học, hoặc có thể của người hiểu biết hơn hết sức quan trọng. Có thể chỉ một gợi ý nhỏ, một chỉ dẫn định hướng, một thao tác đơn giản của bạn học có thể giúp mình gỡ rối cả một vấn đề. Do vậy, việc lựa chọn, hoặc phối hợp các hình thức tự học cá nhân, đôi bạn học tập, nhóm, học với tài liệu, học với chương trình ở ti vi , máy tính … một cách phù hợp đóng vai trò hết sức quan trọng. Kĩ năng lựa chọn các hình thức học tập này không nên xem nhẹ, ngược lại phải được đề cao và sử dụng linh hoạt trong cả quá trình tự học. Kĩ năng này có mối quan hệ trực tiếp với đặc điểm cá nhân và hoàn cảnh người học, nên việc hình thành kĩ năng này phải đi liền với các biện pháp khắc phục khó khăn thực tế của bản thân.
1.3.4.3.4. Xử lí thông tin
Kĩ năng xử lý thông tin có thể được chia làm hai nhóm kĩ năng nhỏ kế tiếp
nhau: hệ thống hóa và phân tích, tổng hợp, khái quát hóa.
Để tri thức tự học có được một cách bền vững và có thể vận dụng được vào trong thực tiễn, người học cần phải xếp chúng vào hệ thống nhất định. Công việc này bao gồm nhiều thao tác, như: tóm tắt, phân loại, xác lập các mối liên hệ, biểu diễn bằng sơ đồ logic, bằng bảng hệ thống kiến thức, … Tri thức được sắp xếp trong vỏ não như một hệ thống có cấu trúc chặt chẽ với các mối liên hệ cụ thể thì dễ nhớ, dễ lấy ra, dễ vận dụng. Do vậy kĩ năng hệ thống hóa kiến thức có vị trí quan trọng trong lưu trữ thông tin.
Quá trình tự học không phải chỉ thu nhận tri thức, mà cần biến nó thành tri thức của bản thân. Quá trình cải biến thông tin này được thực hiện bởi các thao tác tri thức như phân tích, tổng hợp, so sánh, trừu tượng hóa, khái quát hóa. Như vậy, kĩ năng xử lý thông tin trong tự học liên quan mật thiết với kĩ năng tư duy. Do vậy, việc bồi dưỡng kĩ năng xử lý thông tin không tách rời với việc bồi dưỡng kĩ năng sử dụng các thao tác tư duy. Điều đó càng đòi hỏi phải đề cao vai trò chủ động, tích cực của sinh viên trong quá trình tự học.
1.3.4.3.5. Vận dụng tri thức vào thực tiễn
Tri thức có được, nếu không sử dụng thì cũng bị lãng quên hoặc mai một. Do vậy, việc vận dụng tri thức vào thực tiễn vừa là mục đích tự thân của việc học, vừa là quá trình bổ sung, mở rộng, đào sâu, làm giàu tri thức cá nhân. Vận dụng tri thức vào thực tiễn bao gồm cả việc vận dụng kiến thức đã có để giải quyết các vấn đề thuộc về nhận thức và việc vận dụng kiến thức vào sản xuất, đời sống sinh hoạt hàng ngày. Các nhiệm vụ này có nhiều, chung quy có thể xếp vào các hoạt động chung, như: làm bài tập, bài thực hành, thí nghiệm, thực nghiệm, viết báo cáo, xử lý tình huống …
Có thể bạn quan tâm!
- Dạy Học Với Sự Trợ Giúp Của Thiết Bị Kỹ Thuật Hiện Đại
- Các Năng Lực Cần Bồi Dưỡng Cho Sinh Viên Ngành Sư Phạm
- Tự Học Và Các Kỹ Năng Tự Học Của Sinh Viên Ngành Sư Phạm
- Đánh Giá Độ Tin Cậy Và Độ Hiệu Lực Của Công Cụ Đo Lường
- Mức Độ Phù Hợp Của Các Câu Hỏi Sau Khi Đã Loại Bỏ 3 Biến (25, 29, 34)
- Sự Phân Phối Của Mẫu Trong Tiêu Chí Về Thái Độ Tự Học
Xem toàn bộ 137 trang tài liệu này.
Thực tế hiện nay, thói quen và kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tế ở nhiều sinh viên còn yếu. Rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn là một yêu cầu quan trọng của phương pháp giáo dục phổ thông được quy định trong điều 24 Luật Giáo dục. Kĩ năng này liên quan đến việc xác định phạm vi vấn đề, vấn đề then chốt cần giải quyết, việc vận dụng linh hoạt các yếu tố tri thức trong vấn đề thực tế như thế nào,… Các việc làm này đến lượt mình lại được rèn luyện nhiều trong phương pháp giải quyết vấn đề ở bài học trên lớp. Điều đó càng thể hiện sự gắn bó và chịu ảnh hưởng của phương pháp tự học với phương pháp dạy học của giáo viên trong bài diễn giảng trên lớp.
1.3.4.3.6. Trao đổi và phổ biến thông tin
Các kiến thức có được ở mỗi sinh viên nếu được trao đổi với bạn học hoặc thông tin đến các đối tượng có nhu cầu càng tăng thêm ý nghĩa thực tế, đồng thời việc làm đó có tác dụng tích cực đối với việc nắm tri thức của bản thân. Việc trao đổi và phổ biến thông tin có thể diễn ra bằng nhiều hình thức khác nhau, chẳng hạn như: trò chuyện, tuyên truyền, viết tin, báo cáo, viết bài báo khoa học, soạn thảo chuyên đề mini... Địa chỉ phố biến thông tin có thể là ở các seminar, hội thảo, hội nghị khoa học, sách, bài báo, truyền hình, phát thanh, mạng internet. Kĩ năng trao đổi và phổ biến thông tin liên quan đến các kỹ năng truyền đạt (nói) và viết văn bản khoa học. Do vậy, rèn luyện kỹ năng trao đổi và phổ biến thông tin liên quan đến rèn luyện các kỹ năng trình bày thông tin khoa học.
1.3.4.3.7. Kiểm tra, đánh giá
Tự kiểm tra, đánh giá là một kỹ năng quan trọng trong tự học, vì làm được điều này, người học mới biết được trình độ tự học của mình đạt được mức độ nào và xác dịnh điều chỉnh phương pháp tự học thích hợp, cho hiệu quả cao hơn. Việc kiểm tra phải được tiến hành thường xuyên trong quá trình tự học, dưới nhiều hình thức, như: tự trắc nghiệm bằng hệ thống câu hỏi trắc nghiệm khách quan; trắc nghiệm tự luận, hoặc tự kiểm tra qua việc vận dụng kiến thức để làm các bài tập, thực hành, giải quyết các vấn đề thực tiễn đặt ra,... Kỹ năng tự kiểm tra, đánh giá liên quan đến việc xây dựng các tiêu chí và chọn công cụ kiểm tra, đánh giá. Trong quá trình dạy học, giáo viên cần lưu ý tổ chức cho sinh viên các việc làm cụ thể này theo những kế hoạch thích hợp.
1.3.4.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến quá trình tự học
1.3.4.4.1. Nhóm nhân tố bên trong người học
a. Khả năng tự học
Trong các nhân tố bên trong ảnh hưởng đến quá trình tự học, khả năng tự học của bản thân người học là quan trọng nhất, vì người học là chủ thể chiếm lĩnh tri thức, chân lý bằng hành động của chính mình. Với khả năng tự học tốt, người học luôn là chủ thể trung tâm, tự mình tìm ra tri thức bằng hành động của chính mình.
b. Động cơ, hứng thú học tập
Động cơ thúc đẩy người học hăng hái học tập, tư duy. Cái háo hức có thể nằm ngoài kiến thức như lòng mong muốn đỗ đạt nhưng chính nó cũng có thể là động cơ để hoàn thiện tri thức, óc tò mò khoa học. Tất cả điều này có tính chất định hướng, động viên thúc đẩy người học cố gắng học tập. Động cơ nhận thức là nhân tố kích thích trực tiếp sự hoạt động nhận thức. Đây là động lực bên trong quyết định sự diễn tiến và chất lượng của hoạt động.
c. Phương pháp tự học
Để tự học mang lại hiệu quả cao đòi hỏi người học phải có phương pháp tự học, tự nghiên cứu. Mỗi người có năng lực khác nhau nên việc lựa chọn, sử dụng phương pháp cũng khác nhau.
1.3.4.4.2. Nhóm nhân tố bên ngoài
Nhóm nhân tố bên ngoài có ảnh hưởng rất lớn đến quá trình tự học. Trong nhóm nhân tố này, cần kể đến:
a. Phương pháp giảng dạy của giảng viên
Phương pháp giảng dạy của giảng viên ảnh hưởng trực tiếp đến phương pháp tự học của sinh viên. Nếu ở đại học, giảng viên dạy cho sinh viên cách học thì quá trình dạy học ở đại học tạo điều kiện cho sinh viên làm quen với phương pháp làm việc độc lập, chẳng những khi đang học tập ở nhà trường mà cả cho việc tiếp tục tự học sau khi bước vào giai đoạn hoàn toàn tự lập, trưởng thành. Chính sự thay đổi cách dạy ở bậc đại học đòi hỏi mức độ làm việc độc lập của người học cao hơn. Nếu giảng viên làm việc nhiều, ít khuyến khích sinh viên làm việc độc lập, không đề ra yêu cầu cao cho sinh viên học thì dù giảng viên có tích cực đến đâu mà sinh viên không nỗ lực cố gắng thì dạy học không có kết quả. Rốt cuộc người học ỷ lại vào thầy, ít chịu tìm tòi sáng tạo trong học tập.
Tác động của người dạy (ngoại lực) là tác động hỗ trợ, xúc tác, tạo điều kiện và môi trường thuận lợi cho nội lực ở người học được khơi dậy và phát huy cao nhất cho người học tự học, tự phát triển và trưởng thành.
b. Yêu cầu của xã hội, nhà trường
Xã hội hiện đại, công nghệ thông tin phát triển cần phải có phương tiện, phương pháp giao lưu mới. Đồng thời tri thức của loài người đang tăng nhanh về khối lượng, đổi mới nhanh về chất lượng và nội dung. Dù có kéo dài thời gian tự học trong nhà trường bao nhiêu cũng chưa đủ để thích ứng với cuộc sống luôn thay đổi mà phải biết học lấy cách học để tiếp tục tự học suốt đời.
c. Cơ sở vật chất
Trong tự học, tự nghiên cứu quan trọng là phải có sách, đồ dùng và trang thiết bị học tập cần thiết. Đặc biệt là sách chuyên ngành, tài liệu tham khảo, phương tiện dạy học. Vì đó là kho tàng kiến thức cho cả người dạy và người học.
Các phương tiện dạy học như: bản đồ, máy chiếu, máy vi tính, chương trình phần mềm... có vai trò quan trọng giúp người học lĩnh hội và kiểm chứng lại những kiến thức đã học.
d. Thời gian
Trong quá trình học tập sinh viên phải học nhiều môn. Mỗi môn có vị trí, tính chất, nội dung, khối lượng thông tin khác nhau. Ngoài thời gian lên lớp mỗi ngày và phục vụ cho nhu cầu riêng, sinh viên còn tham gia các hoạt động đoàn thể: văn hóa, văn nghệ, TDTT... một số sinh viên đi học thêm, làm thêm... Vì vậy, để học tốt sinh viên phải biết phân phối thời gian hợp lý cho từng công việc.
Hai nhóm nhân tố trên có mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau, hỗ trợ, bổ sung cho nhau tạo điều kiện để hoạt động tự học đạt chất lượng cao. Ví dụ: Cơ sở vật chất đầy đủ kết hợp với năng lực tự học thành thạo và sự nỗ lực của bản thân thì chắc chắn tự học sẽ mang lại giá trị thiết thực. Cho nên không thể nhấn mạnh một chiều về điều kiện bên trong hay điều kiện bên ngoài mà phải biết kết hợp mật thiết hữu cơ hai nhóm nhân tố đó với nhau.
Kết luận Chương 1
Tự học của sinh viên là một bộ phận cốt lòi của việc học, là một thành phần của hoạt động dạy. Tự học của sinh viên là quá trình sinh viên tự lực giải quyết các nhiệm vụ học tập một cách tự lực ở trên lớp hay ngoài lớp khi có hay không có sự hướng dẫn trực tiếp của GV. Tự học phản ánh tính chủ động, tích cực, độc lập và tự chủ nghiên cứu của sinh viên trong quá trình học. Năng lực tự học được phản ánh trên cả ba khía cạnh của việc tự học là nhận thức, thái độ và kĩ năng tự học trong đó kĩ năng tự học là yếu tố trọng tâm. Quá trình tự học chịu sự tác động của 2 nhóm nhân tố là nhóm bên trong người học và nhóm nhân tố bên ngoài.
Việc xác định đúng năng lực tự học của sinh viên cũng như xác định được yếu tố ảnh hưởng đến năng lực tự học sẽ là cơ sở quan trọng để xây dựng những giải pháp nhằm nâng cao khả năng tự học của sinh viên, từ đó nâng cao chất lượng đào tạo ở các cơ sở giáo dục là việc làm rất cần thiết. Trong chương tiếp theo, tác giả sẽ trình bày phương pháp và cách thức thực hiện nhằm đạt được mục tiêu này.
Chương 2: PHƯƠNG PHÁP VÀ CÁCH TIẾN HÀNH NGHIÊN CỨU
2.1. BỐI CẢNH VÀ ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU
Trường Đại học Sư phạm – Đại học Đà Nẵng là một trong 8 đơn vị thành viên của Đại học Đà Nẵng. Trường được thành lập năm 1994 trên cơ sở sát nhập Trường Cao đẳng Sư phạm Quảng Nam – Đà Nẵng, Cơ sở Đại học Sư phạm Ngoại ngữ Đà Nẵng, các khoa cơ bản của Trường Đại học Bách Khoa Đà Nẵng và Bộ môn Văn hóa Trường Công nhân Kỹ thuật Nguyễn Văn Trỗi, Đà Nẵng [30].
Trường đang đào tạo đa ngành, đa cấp, từng bước khẳng định vị thế của mình trong lĩnh vực đào tạo, bồi dưỡng giáo viên cho khu vực miền Trung và Tây Nguyên cũng như trong cả nước.
Sứ mạng của Trường là “Trường Đại học Sư phạm - Đại học Đà Nẵng là cơ sở đào tạo, bồi dưỡng giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục và cán bộ khoa học chất lượng cao gắn với nhu cầu phát triển nguồn nhân lực của khu vực miền Trung, Tây Nguyên và cả nước; là cơ sở nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ và hợp tác quốc tế thuộc các lĩnh vực khoa học giáo dục, khoa học tự nhiên, khoa học xã hội, nhân văn phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và góp phần đưa nền giáo dục Việt Nam ngang tầm các nước tiên tiến trong khu vực và trên thế giới” [30].
Tầm nhìn đến năm 2015 của Trường là “Đến năm 2015, Trường Đại học Sư phạm - ĐHĐN trở thành một trung tâm đào tạo, nghiên cứu, tư vấn về khoa học giáo dục, khoa học tự nhiên và khoa học xã hội - nhân văn, có uy tín ngang tầm với các cơ sở đào tạo đại học trong nước và khu vực Đông Nam Á” [30].
Hoạt động đào tạo:
Với mục tiêu đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu nguồn nhân lực đa dạng của các tỉnh khu vực miền Trung và Tây Nguyên, Trường đã triển khai nhiều loại hình và phương thức đào tạo phong phú, đa dạng từ hệ chính quy tập trung đến hệ vừa làm vừa học, nâng chuẩn; ngoài đào tạo chuyên ngành sư phạm còn đào tạo chuyên ngành cử nhân khoa học thuộc các lĩnh vực Khoa học Giáo dục, Khoa học Tự nhiên, Khoa học Xã hội và Nhân văn. Trường có 29 ngành đào tạo bậc đại học,
trong đó có 16 chương trình đào tạo cử nhân khoa học và 13 chương trình đào tạo cử nhân sư phạm với các ngành: Sư phạm Toán, Sư phạm Tin học, Sư phạm Vật lý, Sư phạm Hóa học, Sư phạm Sinh học, Sư phạm Ngữ văn, Sư phạm Lịch sử, Sư phạm Địa lý, Sư phạm Giáo dục chính trị, Sư phạm Tiểu học, Sư phạm Mầm non và Sư phạm âm nhạc; 06 ngành đào tạo trình độ thạc sĩ và 01 ngành đào tạo trình độ tiến sĩ (Hóa hữu cơ).
Trường có 5.140 SV hệ chính quy tập trung, 305 học viên cao học và trên
2.500 học viên hệ không chính quy đào tạo tại các địa phương thuộc các tỉnh miền Trung - Tây Nguyên và Bến Tre. Mỗi năm, Trường cung cấp hàng ngàn giáo viên, cử nhân khoa học cho các địa phương, góp phần đáp ứng nguồn nhân lực đa dạng cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Đội ngũ cán bộ:
Xây dựng đội ngũ, đặc biệt là đội ngũ cán bộ giảng dạy được xem là nhiệm vụ then chốt đóng vai trò quyết định đối với sự tồn tại và phát triển của nhà trường. Nhận thức được tầm quan trọng đó, ngay từ những ngày đầu thành lập, trên cơ sở đội ngũ cán bộ giảng dạy hiện có, Trường đã tích cực bổ sung đội ngũ từ nhiều nguồn khác nhau, đặc biệt là các sinh viên tốt nghiệp loại giỏi, xuất sắc của các Trường Đại học Sư phạm Hà Nội I, Đại học Sư phạm Vinh, Đại học Sư phạm Huế
... Nhờ đó, Trường đã bổ sung được một đội ngũ cán bộ giảng dạy đáp ứng được yêu cầu quá trình đào tạo. Tính đến tháng 01 năm 2013, Trường ĐHSP Đà Nẵng có 264 giảng viên trong đó có 01 giáo sư, 09 phó giáo sư, 31 tiến sĩ, 170 thạc sĩ và 53 đại học. Trong đó có những nhà khoa học có uy tín trong và ngoài nước. Tỉ lệ sinh viên trên giảng viên cơ hữu sau quy đổi đạt 16SV/1GV. Trường đã khuyến khích, động viên cả vật chất và tinh thần cho cán bộ, giảng viên đi học cao học, nghiên cứu sinh tại các cơ sở đào tạo trong nước và nước ngoài.
Công tác nghiên cứu khoa học:
Trường rất chú trọng đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học trong cán bộ và sinh viên. Đây được xem là những hoạt động quan trọng góp phần nâng cao chất lượng đào tạo, uy tín và vị trí của nhà trường. Trong giai đoạn 5 năm từ năm 2007
đến năm 2012, cán bộ giảng viên của Trường đã thực hiện thành công 4 chương trình nghiên cứu cơ bản, 87 đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ và cấp thành phố, hàng trăm đề tài cấp cơ sở. Nhiều đề tài đã được đưa vào ứng dụng trong thực tế, đạt hiệu quả kinh tế - xã hội cao.
Công tác nghiên cứu khoa học trong sinh viên được đẩy mạnh khá đồng đều ở tất cả các khoa. Hàng năm, Trường đều tổ chức hội nghị “Sinh viên nghiên cứu khoa học“ cấp khoa, cấp trường và lựa chọn đề tài tham gia Hội nghị sinh viên nghiên cứu khoa học cấp Đại học Đà Nẵng. Nhiều đề tài nghiên cứu khoa học của sinh viên đã đạt giải thưởng sinh viên nghiên cứu khoa học cấp Bộ và giải thưởng Sáng tạo Kỹ thuật Việt Nam (VIFOTEC).
Các đề tài nghiên cứu khoa học của cán bộ giảng viên trong trường đề xuất và thực hiện phần lớn xuất phát từ nhu cầu phục vụ giảng dạy và thực tế của địa phương.
2.2. PHƯƠNG PHÁP VÀ CÁCH TIẾN HÀNH NGHIÊN CỨU
2.2.1. Quy trình nghiên cứu
Quy trình nghiên cứu được thể hiện trong Sơ đồ 2.2.1.1.
Sơ đồ 2.2.1.1. Sơ đồ quy trình nghiên cứu trong luận văn