CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG CHO VAY TIÊU DÙNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1 Cho vay tiêu dùng của Ngân hàng thương mại
1.1.1 Khái niệm cho vay tiêu dùng
Hoạt động cấp tín dụng ra đời và tồn tại xuất phát từ đòi hỏi khách quan của quá trình tuần hoàn vốn, để giải quyết hiện tượng dư thừa, thiếu hụt vốn giữa các chủ thể trong nền kinh tế
Hoạt động cấp tín dụng tại NHTM bao gồm: Cho vay, Bảo lãnh, cho thuê tài chính, chiết khấu giấy tờ có giá,... Trong đó, cho vay là hình thức phát triển và phổ biến nhất.
Theo thông tư số 39/2016/TT-NHNN quy định về hoạt động cho vay của các Tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với khách hàng đã quy định khái niệm: “Cho vay là hình thức cấp tín dụng, theo đó tổ chức tín dụng giao hoặc cam kết cho khách hàng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích xác định trong một thời gian nhất định theo thỏa thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi”.
Có thể bạn quan tâm!
- Phát triển hoạt động cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng TMCP Đại Chúng Việt Nam PVcomBank - Chi nhánh Đông Đô - 1
- Phát triển hoạt động cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng TMCP Đại Chúng Việt Nam PVcomBank - Chi nhánh Đông Đô - 2
- Căn Cứ Vào Thời Hạn Cho Vay. Theo Căn Cứ Này, Cho Vay Tiêu Dùng Được Chia Thành Ba Loại:
- Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Tới Phát Triển Hoạt Động Cho Vay Tiêu Dùng Của Ngân Hàng Thương Mại
- Quy Trình Cấp Tín Dụng Và Công Tác Thẩm Định Tín Dụng
Xem toàn bộ 131 trang tài liệu này.
Theo GS. TS Nguyễn Văn Tiến (2014), giáo trình nguyên lý & nghiệp vụ NHTM, NXB Thống Kê: “Cho vay tiêu dùng là một hình thức tín dụng, qua đó ngân hàng cho khách hàng là cá nhân hay hộ gia đình vay một lượng tiền nhất định để mua hàng hóa hay dịch vụ sử dụng vào mục đích tiêu dùng”
Theo PGS. TS Mai Văn Bạn (2011), Giáo trình nghiệp vụ NHTM, NXB Tài Chính: “Cho vay tiêu dùng là loại cho vay nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của các cá nhân và hộ gia đình”
Tuy các khái niệm có các cách diễn đạt khác nhau nhưng đều cùng thể hiện bản chất: Cho vay tiêu dùng được hiểu là hoạt động cho vay của ngân hàng để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của cá nhân, hộ gia đình. Các khoản cho vay tiêu dùng là nguồn tài chính quan trọng giúp những người tiêu dùng có thể trang trải nhu cầu trong cuộc sống như nhà ở, phương tiện đi lại, tiện nghi sinh hoạt... từ đó mức sống của người dân được cải thiện trước khi họ có đủ khả năng về tài chính để chi trả.
1.1.2 Đặc điểm cho vay tiêu dùng
Cho vay tiêu dùng là một hoạt động tất yếu hình thành do yêu cầu của nền kinh tế. Nó có những đặc điểm riêng khác với tín dụng ngân hàng nói chung, cụ thể:
Thứ nhất, đặc điểm về quy mô: Số lượng các khoản vay lớn nhưng quy mô của các khoản vay tiêu dùng thường nhỏ lẻ.
Các khách hàng khi tìm đến ngân hàng nhằm mục đích vay tiêu dùng thường có nhu cầu vốn không lớn lắm. Nguyên nhân là vì khi xác định mua sắm thứ gì thì người tiêu dùng đã có sự tích lũy từ trước, họ chỉ vay ngân hàng để bù đắp phần thiếu hụt và các vật dụng trong gia đình thường không quá đắt đỏ kể cả khi người tiêu dùng vay vốn để xây sửa nhà thì quy mô của các khoản vay đó cũng không quá lớn đối với một ngân hàng.
Tuy nhiên do số lượng khách hàng lớn cũng như nhu cầu vay tiêu dùng rất đa dạng và phong phú nên số lượng các khoản vay tiêu dùng thường lớn hơn nhiều so với các hình thức vay khác. Do đó, tổng dư nợ đối với cho vay tiêu dùng tại các NHTM ngày càng tăng lên.
Thứ hai, đặc điểm về sản phẩm: Sản phẩm cho vay tiêu dùng rất đa dạng
Các sản phẩm cho vay tiêu dùng hướng tới phân khúc khách hàng chính là các cá nhân và hộ gia đình với số lượng khách hàng lớn và phân bố rộng khắp trên địa bàn dân cư. Khi hoạt động cho vay tiêu dùng ngày càng trở nên phổ biến và phát triển, nhu cầu của khách hàng cũng ngày càng khắt khe, đa dạng hơn. Để đáp ứng tối đa những nhu cầu của khách hàng, rất nhiều hình thức, sản phẩm cho vay tiêu dùng mới đã ra đời.
Bên cạnh đó, hoạt động cho vay tiêu dùng có tính ứng dụng công nghệ rất cao. Ngoài việc phát triển mạng lưới chi nhánh rộng khắp cả nước, các ngân hàng còn có thể tiếp cận khách hàng và cho vay trực tiếp thông qua các ứng dụng công nghệ. Nhờ có những ứng dụng này, các ngân hàng có thể tiếp cận tốt hơn với các khách hàng tiềm năng nhờ thủ tục nhanh gọn. Thông qua các ứng dụng công nghệ, các sản phẩm cho vay tiêu dùng phát triển ngày càng đa dạng, phong phú.
Thứ ba, đặc điểm về rủi ro: nhìn chung các khoản cho vay tiêu dùng có độ rủi tương đối
Loại hình cho vay tiêu dùng luôn chứa đựng những nguy cơ rủi ro tương đối vì:
+ Sự ảnh hưởng của các yếu tố khách quan như môi trường kinh tế, văn hóa, xã hội... Trong cuộc sống thì không thể lường trước được những rủi ro khách quan như suy thoái kinh tế, mất mùa, thất nghiệp, bệnh tật, tâm lý tiêu dùng của dân cư, mức độ ổn định xã hội...
+ Sự tác động của nhân tố chủ quan xuất phát từ bản thân khách hàng. Luôn tồn tại nhóm khách hàng có ý định lừa đảo, chây ì, không muốn thanh toán hay tình trạng sức khỏe, khả năng trả nợ của các cá nhân và hộ gia đình...
+ Các rủi ro chủ quan như là tình trạng công việc hay sức khoẻ của khách hàng, diễn biến tâm lý của khách hàng... ảnh hưởng đến tài chính và khả năng trả nợ của cá nhân và hộ gia đình. Hoặc là do sự ảnh hưởng của các tổ chức trung gian (đơn vị, tổ chức có cán bộ công nhân viên vay vốn, các đơn vị chủ quản…), đặc biệt là hình thức CVTD không có TSBĐ cũng mang lại rủi ro rất nhiều đối với loại hình cho vay này.
+ Hệ thống quản lý hành chính của nước ta chưa thật sự tốt nên thông tin tài chính của khách hàng là cá nhân, hộ gia đình chưa đầy đủ và không chính xác hoàn toàn. Mặt khác, đạo đức cá nhân người vay tiêu dùng là yếu tố khó xác định nhưng lại là một trong những nhân tố quan trọng, tác động trực tiếp và có tính quyết định vào việc trả nợ cho ngân hàng. Tuy khoản vay tiêu dùng có độ rủi ro tương đối nhưng mức độ phán tán độ rủi ro rộng, do số lượng các khoản vay tiêu dùng lớn và quy mô mỗi khoản vay nhỏ nên khi xảy ra rủi ro sẽ không làm ảnh hưởng quá lớn đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
Tóm lại, khả năng trả nợ sẽ thay đổi nhanh chóng khi khách hàng thay đổi điều kiện làm việc hoặc sức khoẻ, đồng thời, khả năng bù đắp từ các nguồn khác trong trường hợp có rủi ro hầu như không có.
Chính vì mức độ rủi ro tương đối, công tác quản trị rủi ro cho các NHTM trở thành yếu tố cực kỳ quan trọng và cần được các nhà quản trị, các nhà quản lý quan tâm hơn.
Thứ tư, cho vay tiêu dùng có tính nhạy cảm theo chu kỳ kinh tế:
+ Số lượng các khoản CVTD phụ thuộc vào nhu cầu tiêu dùng của dân cư và khả năng thanh toán của họ. Số lượng các khoản vay tiêu dùng sẽ ngày càng tăng lên trong thời kỳ nền kinh tế mở rộng, phát triển ổn định. Khi đó, người dân có mức thu nhập tương đối cao và ổn định, tình hình kinh tế xã hội đầy lạc quan và người dân có kỳ vọng vào thu nhập tương lai của mình sẽ tăng lên, bởi vậy sẽ khuyến khích được nhu cầu mua sắm tiêu dùng cũng tăng theo. Người dân sẽ có xu hướng đi vay tiêu dùng để phục vụ lợi ích, nhu cầu của mình ở hiện tại và dùng phần thu nhập sẽ đạt được ở tương lai để chi trả cho khoản vay đó.
+ Và ngược lại, khi nền kinh tế rơi vào suy thoái, nhiều biến động, hoạt động sản xuất bị thu hẹp, người dân dẽ rơi vào tình trạng thất nghiệp, thu nhập giảm sút, tâm lý không có khoản thu nhập để chi trả trong tương lai dẫn đến sự e ngại trong chi tiêu, mua sắm của người dân, lúc này người dân có xu hướng tiết kiệm hơn là tiêu dùng.
Do đó, việc phát triển, mở rộng thị trường CVTD của các ngân hàng cũng phụ thuộc rất nhiều vào yếu tố chu kỳ của nền kinh tế.
- Mục đích vay nhằm phục vụ nhu cầu tiêu dùng của cá nhân, hộ gia đình không phải xuất phát từ mục đích kinh doanh. Do đó phụ thuộc vào nhu cầu, tính cách của từng đối tượng khách hàng và chu kỳ kinh tế của người đi vay.
Thứ năm, lãi suất trong cho vay tiêu dùng thường cao hơn so với lãi suất các hình thức vay vốn khác.
+ Do quy mô các khoản vay thường nhỏ (trừ những khoản vay để mua bất động sản). Trên thực tế, dù giá trị khoản vay là lớn hay nhỏ thì để tạo lập được một khoản vay mới, nhân viên ngân hàng cũng phải thực hiện đầy đủ các bước trong quy trình tín dụng, dẫn đến chi phí để cho vay (về thời gian, nhân sự đi thẩm định, quản lý các khoản vay) cao.
+ Mức lãi suất thường ít thay đổi trong suốt thời gian vay. Khi thỏa thuận mức lãi suất cho vay với khách hàng, các ngân hàng luôn phải dự tính đến yếu tố lãi suất huy động đầu vào (có xu hướng thay đổi như thế nào), để tính phần bù rủi ro và chi
phí. Do lãi suất không linh hoạt như các khoản cho vay kinh doanh, nên mức lãi suất CVTD thường cao hơn so với các hình thức vay vốn khác.
Ngoài những đặc điểm nêu trên, CVTD còn phụ thuộc vào một số các yếu tố sau:
- Chất lượng thông tin tài chính của khách hàng vay thường không cao:
Các thông tin của cá nhân và hộ gia đình cung cấp cho ngân hàng thường không rõ ràng và minh bạch. Các doanh nghiệp khi đến vay vốn ở NH phải có báo cáo tài chính được kiểm toán, nhưng cá nhân và hộ gia đình lại có thể dễ dàng giữ kín các thông tin về triển vọng công việc cũng như tình hình sức khỏe của cá nhân.
- Nhu cầu vay tiêu dùng của khách hàng thường phụ thuộc vào chu kỳ kinh tế:
Số lượng các khoản CVTD phụ thuộc chủ yếu vào nhu cầu tiêu dùng của dân cư và khả năng thanh toán của họ, do đó nó có tính nhạy cảm theo chu kỳ. CVTD sẽ tăng lên trong thời kỳ kinh tế phát triển - khi mà người dân có mức thu nhập tương đối cao và ổn định, tình hình kinh tế xã hội đầy lạc quan. Và ngược lại, trong thời kỳ nền kinh tế rơi vào suy thoái, nhiều biến động, hoạt động sản xuất bị thu hẹp, nhiều cá nhân và hộ gia đình sẽ dễ rơi vào tình trạng thất nghiệp, thu nhập giảm sút dẫn đến tâm lý e ngại trong chi tiêu mua sắm và việc vay mượn ngân hàng dành cho mục đích tiêu dùng sẽ được hạn chế.
- Nhu cầu vay tiêu dùng của khách hàng phụ thuộc chặt chẽ vào mức thu nhập và trình độ học vấn:
Người có thu nhập cao thì thường có nhu cầu mua sắm những hàng hóa hay dịch vụ có giá trị lớn hơn. Chính vì thế mà những người này sẽ có nhu cầu vay tiêu dùng lớn hơn so với người có thu nhập thấp hơn.
Tương tự thì những người có trình độ học vấn cao thì họ thường có mức thu nhập cao hơn cũng như khả năng quản lý chi tiêu tốt hơn. Họ sẽ nhận được sự tin tưởng của ngân hàng nhiều hơn bởi ngân hàng sẽ tin rằng các khoản vay sẽ an toàn hơn khi được sử dụng bởi những người có học vấn cao, điều này cũng giúp họ có thể vay được nhiều hơn từ ngân hàng.
1.1.3. Đối tượng khách hàng cho vay tiêu dùng
Cho vay tiêu dùng là các khoản cho vay nhằm tài trợ cho nhu cầu chi tiêu của người tiêu dùng, bao gồm cá nhân và hộ gia đình. Đây là một nguồn tài chính quan trọng giúp khách hàng vay trang trải nhu cầu tiêu dùng trước khi tiết kiệm tích lũy đủ cho một khoản tiêu dùng, như là nhu cầu mua nhà ở, mua sắm đồ dùng gia đình, xe cộ, chi phí y tế, du lịch,v.v.
Đối tượng mà các NHTM hướng tới khi thực hiện cho vay tiêu dùng là các cá nhân, hộ gia đình có nhu cầu tiêu dùng. Việc phân loại các đối tượng vay tiêu dùng sẽ giúp các NHTM trong việc đưa ra các sản phẩm cho vay tiêu dùng phù hợp và mang lại hiệu quả cao. Có rất nhiều tiêu thức để phân loại đối tượng của hoạt động cho vay tiêu dùng, dưới đây là các tiêu thức phổ biến thường gặp:
1.1.3.1 Phân theo mức thu nhập:
- Những người có thu nhập thấp: họ là những người có hoàn cảnh khó khăn, rất muốn cải thiện đời sống của mình nhưng bị hạn chế do thu nhập không đủ để thỏa mãn nhu cầu đa dạng của họ. Tuy nhiên, họ cũng có mong muốn cuộc sống tốt hơn như bất kỳ những người có thu nhập cao hơn nào. Do đó ngân hàng cũng cần có biện pháp phù hợp để thu hút những người này đến ngân hàng hiện tại và trong tương lai.
- Những người có thu nhập trung bình: khi thu nhập tăng thì nhu cầu cải thiện điều kiện sống của người tiêu dùng cũng tăng. Đối với những người thuộc nhóm này thì nhu cầu tín dụng tiêu dùng có hướng tăng trưởng ngày càng mạnh bởi khoản tích lũy của nhóm này tuy ít song thu nhập trong tương lai của họ có phần ổn định để chi trả cho những nhu cầu tiêu dùng hiện tại.
- Những người có thu nhập cao: những người thuộc nhóm này thường cần tới những khoản vay tiêu dùng với mục đích coi đó như một khoản linh hoạt để chi tiêu và trợ giúp thêm cho khả năng thanh toán, khi mà tiền vốn của họ đã đem đầu tư trung và dài hạn. Mặc dù khoản vay mượn nhằm mục đích tiêu dùng của họ chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ trong tổng số tài sản mà họ sở hữu nhưng lại là những món
tiền lớn so với các nhóm khách hàng khác nên ngân hàng tỏ ra quan tâm đặc biệt đến nhóm khách hàng này.
1.1.3.2 Phân loại theo tình trạng công tác hoặc lao động
Nhu cầu vay tiêu dùng của cá nhân phụ thuộc vào tính chất công việc, nghề nghiệp hoặc nơi công tác. Xét theo đặc điểm phân loại trên ta có các nhóm khách hàng sau:
+ Những người có công việc kinh doanh riêng;
+ Những người hành nghề chuyên nghiệp: ca sĩ, luật sư, bác sĩ, giáo viên,..;
+ Những người lao động tự do.
Theo cách phân loại trên thì thực tế những người thuộc 2 nhóm đầu có thu nhập ổn định và cao hơn so với nhóm cuối và nhu cầu vay tiêu dùng phân theo tình trạng công tác hay lao động cũng chủ yếu xuất phát từ những nhóm đó.
1.1.4 Phân loại cho vay tiêu dùng
1.1.4.1 Căn cứ vào mục đích vay. Theo căn cứ này, cho vay tiêu dùng được chia thành hai loại:
- Cho vay tiêu dùng cư trú là các khoản cho vay được cấp nhằm tài trợ nhu cầu xây dựng, cải tạo nhà ở của cá nhân, hộ gia đình hay mua sắm. Các khoản vay này thường có quy mô lớn, thời hạn vay dài và được đảm bảo bằng chính tài sản hình thành từ vốn vay nhưng có mức độ rủi ro cao.
- Cho vay tiêu dùng phi cư trú là các khoản cho vay phục vụ nhu cầu cải thiện đời sống như mua sắm đồ dùng gia đình, du lịch, học tập, giải trí, y tế... Các khoản vay này thường có giá trị không lớn, quy mô nhỏ, thời hạn từ ngắn đến trung hạn. Do đó, mức độ rủi ro ở đây là thấp hơn so với các khoản cho vay tiêu dùng mua bất động sản.
1.1.4.2 Căn cứ vào hình thức vay. Theo căn cứ này, cho vay tiêu dùng được chia thành hai loại: CVTD gián tiếp và CVTD trực tiếp
- Cho vay tiêu dùng gián tiếp là hình thức cho vay trong đó ngân hàng mua các khoản nợ phát sinh của các nhà cung cấp đã bán chịu hàng hoá (tài sản) hay đã cung
cấp các dịch vụ cho người tiêu dùng, hình thức này NH cho vay thông qua các doanh nghiệp bán hàng hoặc làm các dịch vụ mà không trực tiếp tiếp xúc với KH.
Các hình thức cho vay tiêu dùng gián tiếp:
+ Tài trợ truy đòi toàn bộ: là hình thức tài trợ mà công ty bán lẻ sau khi bán các khoản nợ mà người tiêu dùng đã mua chịu cho NH sẽ cam kết thanh toán cho NH toàn bộ nếu đến khi hết hạn người tiêu dùng không thanh toán cho NH.
+ Tài trợ truy đòi hạn chế: là phương thức tài trợ mà sau khi bán các khoản nợ do người tiêu dùng đã mua chịu cho NH, công ty bán lẻ sẽ cam kết thanh toán cho NH một phần khoản nợ nếu khi đến hạn người tiêu dùng không thanh toán cho Ngân hàng.
+ Tài trợ miễn truy đòi: là hình thức tài trợ mà sau khi bán các khoản nợ cho Ngân hàng, công ty bán lẻ không chịu trách nhiệm cho việc chúng có được hoàn trả hay không. Đây là phương thức chứa đựng rủi ro rất cao nên khoản nợ được lựa chọn rất kỹ và chỉ có các công ty bán lẻ đáng tin cậy mới áp dụng phương pháp này.
+ Tài trợ có mua lại: Khi thực hiện vay tiêu dùng gián tiếp theo phương thức miễn truy đòi hoặc truy đòi một phần, nếu xảy ra rủi ro người tiêu dùng không trả nợ thì Ngân hàng sẽ bán trở lại cho công ty bán lẻ phần nợ mình chưa được thanh toán kèm với tài sản đã được tiêu thụ trong một thời gian nhất định.
- Cho vay tiêu dùng trực tiếp là hình thức cho vay, theo đó NH tiếp xúc trực tiếp với KH để tiến hành cho vay cũng như thu nợ.
Các hình thức cho vay tiêu dùng trực tiếp:
+ Cho vay thông thường: là phương thức trong đó KH vay vốn và trả trực tiếp cho NH với mức thanh toán và thời gian thanh toán mỗi lần được quy định khi cho vay.
+ Thấu chi: là nghiệp vụ cho phép một cá nhân rút tiền từ tài khoản thanh toán của mình vượt quá số dư có tới một hạn mức nhất định đã được thoả thuận.
+ Thẻ tín dụng: là nghiệp vụ trong đó NH phát hành thẻ cho những cá nhân đủ điều kiện cấp thẻ, ấn định mức giới hạn tín dụng tối đa mà người có thẻ được phép sử dụng.