Tự Học Và Các Kỹ Năng Tự Học Của Sinh Viên Ngành Sư Phạm


+ Kỹ năng xác định các mục tiêu và phương pháp học tập cá nhân phù hợp với những mục tiêu đã định.

+ Kỹ năng lập kế hoạch rèn luyện và phát triển các phong cách học tập thích

hợp với nhiệm vụ học tập.

c. Kỹ năng kiểm tra, đánh giá quá trình và kết quả học tập, bao gồm:

+ Kỹ năng xem xét các kết quả kiểm tra và phân tích, đánh giá ưu, nhược điểm, thiếu sót.

+ Kỹ năng đánh giá thường xuyên hành vi học tập cá nhân của mình và của người khác.

+ Kỹ năng kiểm tra thường xuyên học lực của mình thông qua các hình thức

trắc nghiệm khác nhau.

+ Kỹ năng kiểm tra thường xuyên sức khoẻ và vệ sinh cá nhân trong học tập

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 137 trang tài liệu này.

và quan hệ học tập.

+ Kỹ năng sử dụng các tình huống khác nhau để tiếp nhận sự đánh giá từ người khác về việc học của mình.

Đánh giá năng lực tự học của sinh viên các ngành sư phạm được đào tạo theo học chế tín chỉ tại Trường Đại học Sư phạm Đà Nẵng - 5

+ Kỹ năng đánh giá so sánh kết quả học tập giữa các môn, giữa các thời kỳ, giữa mình và các bạn.

1.3.3.3. Xác định năng lực của sinh viên

Năng lực sinh viên là thông số đặc trưng của chất lượng giáo dục đại học. Không thể đánh giá chất lượng giáo dục chỉ qua những chỉ báo số lượng như số lượng sinh viên đã được đào tạo, chỉ tiêu tốt nghiệp; số sinh viên tốt nghiệp loại khá giỏi, hoặc vào số sinh viên đoạt các giải trong các kỳ thi...

Những chỉ báo về số lượng chỉ như những “ảnh chụp chớp nhoáng” bất động về một tình hình nhất định [31]. Trong khi đó, chỉ báo chất lượng phải là những chỉ báo quá trình. Chúng cho phép nhà giáo dục có thể đánh giá năng lực của người học, người dạy và người quản lý cũng như kiểm soát được quá trình đào tạo.

Việc xác định sinh viên có năng lực hay không và đến mức nào được thực hiện trên bốn phương diện cơ bản [31]:


+ Những chỉ báo về trí tuệ (khả năng học tập/làm việc trí óc và cách sử dụng

thời gian);

+ Những chỉ báo về động cơ học tập;

+ Những chỉ báo về phẩm chất xã hội;

+ Những chỉ bảo về phẩm chất nghề nghiệp.

1.3.3.3.1. Những chỉ báo về khả năng học tập

Sự thành công trong dạy học không gắn nhiều với số lượng kiến thức được nhận mà với những khả năng vận dụng kiến thức. Nhiều cách hoạt động trí óc phải được xác lập và phát triển cho người học từ bậc trung học và cần được người học đại học tiếp tục phát triển trong ngành nghề được đào tạo.

Nhóm nghiên cứu Men (1988) đã đề xuất 8 cách hoạt động trí óc. Học quan sát, bao gồm những khả năng, quan sát một tình huống, phân tích tình huống đó và phân biệt những thông tin chính, sơ đồ hóa tất cả những yếu tố thuộc một vấn đề. Học thu thập, phân tích và xử lý thông tin (bao hàm những khả năng rút ra những thông tin từ một tư liệu và ghi chép từ một thông báo hay bài phát biểu. Học cách tổng hợp vấn đề, điều đó đòi hỏi phát triển những khả năng tổng hợp, cấu trúc cách giải quyết vấn đề, sắp xếp những thông tin về một đề tài. Học cách khái quát hóa, tức là qui nạp những ý kiến từ những sự kiện, xây dựng một giả thuyết và kiểm tra giả thuyết đó. Học phán đoán hoặc dựa vào những nguyên lý để rút ra những hệ quả. Học thông báo, điều này yêu cầu nhiều hơn các khả năng thể hiện những thông tin bằng sơ đồ, đồ thị, bằng một ngôn ngữ tượng trưng hay kỹ thuật. Học quyết định và hành động, điều này nhất thiết bao hàm việc lựa chọn đúng đắn những phương pháp thuật toán, phương pháp thực hành, bao hàm khả năng lập và thực hiện một chương trình hành động. Học phán đoán và đánh giá, khả năng phát biểu những tiêu chuẩn đánh giá, đánh giá theo những tiêu chuẩn đã được lựa chọn, hiệu chỉnh một hành động hay một phương pháp.

Toàn bộ những cách hoạt động trí óc nêu trên, nếu được tiến hành đánh giá đều đặn đối với sinh viên thông qua không chỉ thi, kiểm tra mà quan trọng hơn là qua nhiều hình thức và phương pháp dạy học khác nhau như dạy theo dự án, giải


quyết vấn đề, học theo tình huống, thảo luận nhóm, trình bày, viết báo cáo... kết hợp với tăng cường cung cấp các tài liệu tham khảo, trang thiết bị học tập sẽ giúp người học tìm ra lời giải đáp cho những vấn đề mà họ chưa từng gặp. Nói cách khác, các chỉ báo về khả năng học tập nói trên có thể đánh giá khả năng ứng dụng kiến thức của người học vào những tình huống khác nhau của công việc thuộc lĩnh vực nghề nghiệp mà họ đang học.

1.3.3.3.2. Chỉ báo về cách sử dụng thời gian

Cách sử dụng thời gian là một trong những kỹ năng sống quan trọng của một người trí thức. Căn cứ vào cách sinh viên sắp xếp và sử dụng thời gian, Shereiber (1983) đã chia thành năm tình huống sử dụng thời gian. Một là người chuyên kiện toàn, chỉnh lý và bổ sung cho những kiến thức của mình. Hai là người dành nhiều thời gian cho những kẻ khác làm ảnh hưởng đến thời gian của mình. Ba là người quan trọng hóa các đòi hỏi quá mức của cha mẹ nên gặp khó khăn để kết thúc và hoàn thành tốt một vấn đề. Bốn là người phải chờ đến phút cuối cùng mới chịu cố gắng. Năm là người tự lực cánh sinh trong tất cả mọi việc và không cần đến ai.

Việc sử dụng thời gian của người sinh viên liên quan mật thiết đến khả năng xác định mục tiêu và sử dụng phương pháp học tập của người học, đồng thời đến khả năng làm việc có kế hoạch sau tốt nghiệp.

1.3.3.3.3. Những chỉ báo về động cơ học tập

Trong một nền giáo dục xem trọng chất lượng và mong muốn phát triển khả năng học tập suốt đời cho người học, động cơ học tập được xem là một trong những nhân tố quan trọng bậc nhất cần phát triển, vì vậy cũng là tiêu chí chủ yếu cần đánh giá. Theo quan điểm của Leontiev, L.I.Bogiovic (1951) thì động cơ học tập bao gồm các hệ thống chỉ báo sau:

- Hệ thống chỉ báo thứ nhất của tiêu chí động cơ học tập là những mức độ và biểu hiện của sự thiết tha đối với việc học tập. Trạng thái nhập cuộc vào đời sống đại học, một trạng thái tích cực, năng động trong suốt thời gian học là một trong những biểu hiện cơ bản của lòng thiết tha đối với việc học tập. Mức độ nhập cuộc


vào việc học tập của người sinh viên ảnh hướng tới sự rèn luyện - phát triển trí tuệ

và xã hội, tới chất lượng học tập của sinh viên.

- Thứ hai là chỉ báo về việc xác định rò ràng những ý định và dự định cá nhân qua việc chọn lựa ngành học. Ở phương diện này, chọn lựa và xác định hướng học của sinh viên là kết quả của một quyết định cá nhân với một niềm tin vững chắc và có lý do. Bên cạnh đó, họ còn có những dự kiến về cương vị, về công việc, về uy tín của nghề nghiệp trong tương lai và về những khó khăn sẽ phải đương đầu.

- Thứ ba là chỉ báo về khả năng tự định cho mình những mục tiêu. Khả năng tự xác định mục tiêu và hướng sự quyết định vào những mục tiêu rò ràng là biểu hiện rò nét và sâu sắc động cơ học tập của người học. Khi hướng quyết định vào những mục tiêu rò ràng thì người sinh viên sẽ chú ý chọn lọc, tách biệt những thông tin nhận được, nhờ vậy định rò được những nét mấu chốt mà họ cần tập trung hoạt động.

1.3.3.3.4. Những chỉ báo về phẩm chất xã hội

Trong mỗi nước cũng như trên bình diện quốc tế đang có xu thế dẫn đến sự ưu tiên cho tinh thần tranh đua và cho sự thành đạt cá nhân, tạo nên những khủng hoảng về mặt tinh thần và văn hóa trong giáo dục ở nhiều nước trên thế giới hiện nay. Vì vậy, ba phẩm chất xã hội cần ưu tiên phát triển và đánh giá ở người sinh viên thế kỷ 21 là:

Khả năng tự hoàn thiện nhân cách bằng các giá trị nhân văn vốn có gốc rễ

sâu xa trong truyền thống dân tộc;

Sự phát triển bản sắc và cảm thức chung của cộng đồng;

Khả năng làm việc hợp tác.

Việc chú trọng đào tạo và đánh giá các nhân tố trên giúp khắc phục hiện trạng người học chỉ tập trung thu hoạch một số kiến thức và kỹ năng cụ thể để mưu sinh hay thăng tiến trong xã hội. Mặt khác, chúng cũng giúp sinh viên thoát khỏi sự nghèo nàn và yếu ớt về mặt văn hóa và tinh thần, tạo cho họ nhiều cơ may hiểu được chính mình, hiểu được người khác, nhờ vậy có thể học cách sống cùng cộng đồng trong sự khoan dung và tôn trọng lẫn nhau. Thế kỷ 21 đòi hòi ở mỗi con người


năng lực tự chủ và xét đoán cao hơn, gắn bó với sự tăng cường trách nhiệm cá nhân trong nỗ lực nhằm đạt mục đích chung. Ý thức và khả năng hợp tác làm việc đóng một phần quan trọng trong việc đáp ứng đòi hỏi ấy của xã hội hiện đại.

Các chỉ báo đánh giá phẩm chất xã hội có thể được đo lường thông qua các hoạt động giáo dục nghệ thuật, nhân văn và xã hội trong nhà trường, cũng như thông qua các hình thức học tập theo hướng gắn liền với giải quyết các vấn đề của thực tiễn xã hội, văn hóa địa phương.

1.3.4. Tự học và các kỹ năng tự học của sinh viên ngành sư phạm

1.3.4.1. Vai trò của tự học

Trong thời đại khoa học công nghệ phát triển như vũ bão và cùng với nó là sự bùng nổ thông tin, việc tự học có vai trò vô cùng quan trọng. Tự học được xem là “chìa khóa vàng” giúp con người đã và đang bước vào thiên niên kỷ mới với trình độ khoa học - công nghệ hiện đại. Việc tự học giúp con người không ngừng nâng cao hiểu biết, cập nhật tri thức nghề nghiệp, phát huy được năng lực của bản thân trong lao động và sáng tạo.

Đối với sinh viên, tự học giúp đúc rút phương pháp học tập phù hợp, biết cách tư duy sáng tạo, biện luận một vấn đề nào đó, năng động linh hoạt trong vận dụng kiến thức vào giải quyết các tình huống thực tế. Đồng thời, tự học giúp người học bổ sung, đào sâu, hệ thống hoá, khái quát hóa những điều đã học, có tác dụng quyết định đến kết quả học tập, phát triển và củng cố năng lực nhận thức, sức mạnh ý chí, nghị lực và những phẩm chất cần thiết của việc tổ chức lao động học tập.

Ngoài ra, tự học còn giúp người học rèn luyện tính độc lập, rèn luyện trí nhớ và tư duy. Chính vì vậy, nên ngay trong các điều: 4, 24, 36 của Luật giáo dục qui định rất rò: "Tự học là một vấn đề quan trọng trong phương pháp giáo dục của các bậc học, các ngành học". Và điều 46 ghi rò: “Việc học liên tục, học suốt đời nhằm hoàn thiện nhân cách, mở rộng hiểu biết, nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn nghiệp vụ để cải thiện chất lượng cuộc sống, tìm việc làm và thích nghi với đời sống xã hội” [18]. Giáo dục-đào tạo theo hướng phát triển tự học sẽ tạo ra được


những con người năng động, sáng tạo, có khả năng công tác và có thể đưa ra nhiều ý tưởng phát triển tốt cho mỗi ngành nghề góp phần vào sự phát triển của xã hội.

1.3.4.2. Các quan niệm về tự học

Khái niệm tự học (Self-Directed Learning - SDL) là một vấn đề mà các nhà giáo dục nghiên cứu và tranh luận sôi nổi trong nhiều năm.

Tự học bắt nguồn từ giáo dục cho người trưởng thành, là một giải pháp thực hiện bởi học viên người lớn ở tiểu học và trung học. Hiện nay việc định nghĩa tự học đã có nhiều thay đổi, nhưng tựu chung có một số quan điểm sau:

+ Bolhuis (1996) và Garrison (1997) cho rằng tự học là xem người học là người chủ có trách nhiệm và tự quản lý quá trình học của mình. Tự học tích hợp việc tự quản lý với tự kiểm soát, đó là quá trình mà người học tự theo dòi, đánh giá và điều chỉnh chiến lược nhận thức của mình [36].

+ Tự học được nhìn nhận với vai trò nổi bật của động cơ học tập và ý chí nhằm thiết lập và duy trì việc học của người học. Động cơ học tập khiến người học quyết định tham gia học tập, ý chí dẫn đến lòng mong muốn nhìn thấy việc học đi đến mục đích cuối cùng (Como, 1992; Garrison, 1997) [35].

+ Trong hoạt động tự học, việc kiểm soát chuyển dần từ GV sang người học. Người học phải thể hiện tính độc lập cao trong việc đưa ra mục tiêu và quyết định nội dung học cũng như biện pháp để thực hiện nhiệm vụ học tập. (Lyman, 1997; Morrow, Sharkey, & Firestone, 1993) [36].

+ Trong tự học, GV chỉ nâng đỡ việc học của người học bằng cách làm cho việc học trở nên “rò ràng”. GV đưa ra mô hình của chiến lược học tập và làm việc với người học vì thế người học phát triển được khả năng tự làm việc một mình (Bolhuis, 1996; Corno, 1992; Leal, 1993) [36].

Tuy nhiên, tự học lại có tính cộng tác cao. Trong tự học, người học thường cộng tác chặt chẽ với GV và với bạn học cùng lớp (Guthrie, Alao & Rinehart; 1997; Temple & Rodero, 1995) [36].

+ Tự học phát triển những lĩnh vực kiến thức nhất định cũng như khả năng chuyển kiến thức sang các hoàn cảnh mới. Tự học là cầu nối giữa kiến thức ở nhà


trường với các vấn đề thực tế của xã hội bằng cách xem xét người khác học thế nào trong cuộc sống thường ngày (Bolhuis, 1996; Temple & Rodero, 1995) [36].

Ở Việt Nam một số nhà giáo dục đã đưa ra một số quan niệm về tự học như sau: Theo GS. Nguyễn Cảnh Toàn thì tự học là tự mình động não, suy nghĩ, sử dụng các năng lực trí tuệ và có khi cả cơ bắp cùng với các phẩm chất của mình, rồi cả động cơ, tình cảm, cả nhân sinh quan, thế giới quan để chiếm lĩnh một lĩnh vực hiểu biết mới nào đó của nhân loại, biến lĩnh vực đó thành sở hữu của mình [27]. Theo Nguyễn Kỳ (Trung tâm nghiên cứu và phát triển tự học) thì tự học nghĩa là người học tích cực chủ động tự mình tìm ra bằng hành động của mình, tự thể hiện mình và hợp tác với các bạn, học bạn, học thầy và học mọi người. Tự học là tự đặt mình vào tình huống học, vào vị trí của người tự nghiên cứu, xử lý các tình huống, giải quyết các vấn đề đặt ra cho mình để nhận biết vấn đề, thu thập xử lý thông tin cũ, xây dựng các giải pháp giải quyết vấn đề, thử nghiệm các giải pháp... Tự học thuộc quá trình cá nhân hóa việc học [12].

Tựu chung, tự học là hoạt động của bản thân người học tự chiếm lĩnh các kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo một cách tự giác, chủ động, tự lực và tích cực. Tự học có nhiều hình thức khác nhau:

+ Tự học trên lớp có tổ chức, điều khiển, hướng dẫn của giảng viên.

+ Tự học ngoài lớp có sự điều khiển, tổ chức của giảng viên.

+ Tự học ngoài lớp không có sự điều khiển, tổ chức của giảng viên.

Hai mức độ trên nhằm vào việc học những nội dung được qui định trong chương trình mà người học theo đuổi. Hình thức thứ 3 của tự học là người học tiến hành tự học một cách tự giác nhằm thỏa mãn nhu cầu hiểu biết, mở rộng, đào sâu, bổ sung kiến thức văn hóa chung của bản thân. Những kiến thức này nằm ngoài chương trình bắt buộc. Việc tìm hiểu là do nhu cầu hiểu biết, nâng cao của người học.

1.3.4.3. Các kĩ năng tự học

1.3.4.3.1. Xây dựng kế hoạch tự học

Bao gồm việc lên danh mục các nội dung cần tự học, khối lượng và yêu cầu


cần đạt được, các hoạt động cần phải tiến hành, sản phẩm cụ thể cần phải được tạo ra, thời gian dành cho mỗi nội dung và hoạt động. Kế hoạch tự học phải đảm bảo tính khoa học, tính vừa sức và tính khả thi. Xây dựng được bản kế hoạch tự học hợp lí là kĩ năng quan trọng đầu tiên đối với mỗi sinh viên. Trong bản kế hoạch này cũng cần phải dự trù các phương án phụ, dự kiến khắc phục các trở ngại đột xuất về thời gian, yêu cầu chung ...

1.3.4.3.2. Lựa chọn tài liệu

Trong tình hình đa dạng và phong phú về thông tin như hiện nay, việc lựa chọn tài liệu tự học hết sức quan trọng. Tài liệu tự học có thể lấy từ rất nhiều nguồn khác nhau: sách, báo, các văn kiện ... các tài liệu này có thể ở dạng viết, nghe nhìn, hoặc trực tiếp khai thác từ intranet, internet, có thể trong nước hoặc nước ngoài.

Lựa chọn cho đúng, đủ các tài liệu cần thiết phục vụ cho tự học là việc làm không kém phần phức tạp, đòi hỏi người học phải được rèn luyện một kĩ năng lựa chọn thích hợp, bắt đầu tự chọn đúng, chọn đủ, chọn hợp lý, chọn cái thực sự cần thiết, chọn tài liệu liên quan trực tiếp, gián tiếp, bổ sung, phục vụ ... Để tự học hiệu quả, sinh viên cần rèn luyện cho mình kĩ năng lựa chọn các tài liệu thích hợp.

Kĩ năng lựa chọn tài liệu còn được thể hiện trong việc trực tiếp dự giờ, tham gia hội thảo và hội nghị khoa học, seminar, thực tế, lấy ý kiến chuyên gia, quan sát kết quả thí nghiệm.... Những tài liệu có được từ nguồn này có thể ở dạng thô, đòi hỏi người học phải có kĩ năng phân tích, tổng hợp khái quát hóa, rút ra các thông tin cần thiết, bổ ích cho bản thân. Đồng thời những suy nghĩ của bản thân lại chịu tác động trực tiếp của các ý kiến khách quan, đòi hỏi người học không những có kĩ năng chọn lọc, nắm bắt nhanh nhạy thông tin, mà còn so sánh, đối chiếu, tự đánh giá thông tin mình lựa chọn được.

1.3.4.3.3. Lựa chọn hình thức tự học

Lựa chọn hình thức tự học cũng là kĩ năng cần thiết ở người học. Tự học về cơ bản là tự bản thân mình tiến hành hoạt động độc lập để chiếm lĩnh tri thức, kĩ năng. Tuy nhiên, việc tự học không phải bao giờ cũng được thực hiện một cách dễ dàng, thuận lợi. Những khó khăn vấp phải trong tự học – nhiều lúc rất nhiều, tưởng

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 07/06/2022