Đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ về hoạt động thu chi tm tại ngân hàng agribank Việt Nam – Chi nhánh huyện alưới - 2

Chương 2: Thực trạng hệ thống KSNB về hoạt động thu chi TM tại Agribank huyện Alưới.

Mở đầu chương 2 là phần giới thiệu khái quát về Agribank huyện A Lưới. Tiếp đến là thực trạng hệ thống KSNB đối với hoạt động thu chi TM tại Agribank A Lưới. Thông qua đó rút ra những mặt ưu điểm, thành công đồng thời là những tồn tại, hạn chế cần được giải quyết theo yêu cầu của thực tiễn.

Chương 3: Đánh giá và đề xuất ý kiến nhằm hoàn thiện hệ thống KSNB quy

trình thu chi TM tại chi nhánh NH Agribank huyện A Lưới.


Trên cơ sở lý luận và thực tiễn hệ thống KSNB, từ đó đề xuất một số biện pháp cơ bản nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống kiểm tra-kiểm soát tại Chi nhánh.

Phần III: Kết luận và kiến nghị.


Kết luận về đề tài nghiên cứu. Nêu một số kiến nghị đối với cơ quan thực tập và các cấp cơ quan có liên quan từ đó đưa ra các giải pháp nhằm khắc phục những tồn tại nhằm nâng cao hiệu quả quản lí TM.


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 59 trang tài liệu này.

PHẦN II

NỘI DUNG VÀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

Đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ về hoạt động thu chi tm tại ngân hàng agribank Việt Nam – Chi nhánh huyện alưới - 2


CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NGÂN HÀNG VÀ HỆ THỐNG KSNB CỦA NHTM

1.1. Cơ sở lý luận về Ngân hàng thương mại


1.1.1.Khái niệm về NHTM

Theo TS Hoàng Văn Liêm1 : “NHTM là định chế tài chính trung gian quan trọng vào loại bậc nhất trong nền kinh tế thị trường. Nhờ hệ thống định chế tài chính trung gian này mà các nguồn tiền nhàn rỗi nằm rải rác trong xã hội sẽ được huy động, tập trung lại, đồng thời sử dụng vốn đó để cấp tính dụng cho các tổ chức kinh tế, cá nhân để phát triển xã hội”.

1.1.2. Đặc điểm của NHTM 2

- NHTM là một trung gian tài chính


Đặc điểm là một trung gian tài chính của NHTM được biểu hiện là kết nối giữa cung và cầu về vốn: NHTM vai trò trung gian NHTW với công chúng và nền kinh tế; Trung gian tài chính giữa người đi vay và người cho vay.

- NHTM là một DN kinh doanh tiền tệ


Ngân hàng có chất liệu là kinh doanh “quyền sử dụng các khoản tiền tệ”. Sản phẩm của NHTM cũng có đầy đủ hai thuộc tính của một hàng hóa: giá trị sử dụng và giá trị.

1.1.3.Chức năng của NHTM

- Chức năng trung gian tín dụng3

Hoạt động chính của NHTM là đi vay để cho vay. Một mặt, NHTM huy động những nguồn tiền nhàn rỗi ở mọi chủ thể trong xã hội. Mặt khác, NHTM dùng nguồn vốn huy động được để cho các chủ thể cần vốn trong xã hội vay lại. Như vậy, NHTM là một trung gian về tín dụng giữa các chủ thể dư thừa vốn và những chủ thể thiếu vốn.

- Chức năng trung gian thanh toán4


1 TS Hoàng Văn Liêm (2007). Giáo trình Tài chính-Tiền tệ. Huế

2 GS.TS. Lê Văn Tư (2005). Ngân hàng thương mại. NXB Thống kê.

3 TS. Hoàng Văn Liêm (2007). Giáo trình Tài chính-Tiền tệ. Huế

Khi ngân hàng ra đời và hoạt động trong nền kinh tế thì dần dần các giao dịch được thực hiện qua hệ thống ngân hàng. Thay cho việc thanh toán trực tiếp, các cá nhân, tổ chức có thể nhờ NHTM trả tiền hoặc nhận tiền từ chủ thể khác bằng nhiều hình thức khác nhau với kỹ thuật ngày càng tiên tiến, thủ tục đơn giản.

- Chức năng tạo ra tiền5

Những hoạt động mà NHTM thực hiện hình thành nên cơ chế tạo tiền trong toàn bộ hệ thống ngân hàng. Từ những khoản nhận được từ NHTW hoặc các khoản tiền gửi ban đầu, NHTM sử dụng để cho vay, sau đó những khoản tiền này sẽ quay lại NHTM một phần khi những người sử dụng gửi tiền vào dưới dạng tiền gửi. Quá trình huy động tiền gửi và cho vay của NHTM trên cơ sở lượng tiền được cung ứng ban đầu sẽ được kéo dài và chỉ dừng lại khi nào toàn bộ lượng tiền được cung ứng ban đầu quay trở về hết NHTM dưới dạng tiền gửi dự trữ bắt buộc.

- Chức năng làm dịch vụ tài chính và các dịch vụ khác6

Trong quá trình thực hiện nghiệp vụ tín dụng và ngân quỹ, NHTM với sự thuận lợi về kho quỹ, thông tin, quan hệ rộng rãi – có thể làm tư vấn tài chính và đầu tư cho các DN, làm đại lý phát hành cổ phiếu, trái khoán bảo đảm đạt hiệu quả cao và tiết kiệm chi phí. Ngoài ra NHTM còn cung cấp dịch vụ lưu trữ và quản lý chứng khoán cho khách hàng, thu lãi chứng khoán, bảo quản an toàn vật có giá, cho thuê két ngân quỹ, dịch vụ tín thác hoặc ủy thác ngân hàng.

- Chức năng tài trợ ngoại thương, mở rộng nghiệp vụ ngân hàng quốc tế7

Bằng cách thiết lập văn phòng đại diện ở nước ngoài, hay liên kết với các NHTM khác ở nước ngoài, các NHTM trong nước sẽ là sự đảm bảo cho các hợp đồng thương mại quốc tế. Ngoài ra, NHTM còn thực hiện các dịch vụ ngân hàng quốc tế như kinh doanh ngoại hối, thanh toán quốc tế, tín dụng hợp vốn, đồng tài trợ, hùn vốn, đại lý, ủy thác…


4 TS. Hoàng Văn Liêm (2007). Giáo trình Tài chính-Tiền tệ. Huế 5 TS. Hoàng Văn Liêm (2007). Giáo trình Tài chính-Tiền tệ. Huế 6 TS. Hoàng Văn Liêm (2007). Giáo trình Tài chính-Tiền tệ. Huế 7 TS. Hoàng Văn Liêm (2007). Giáo trình Tài chính-Tiền tệ. Huế

1.1.4. Vai trò của NHTM8

- Vai trò thực thi chính sách tiền tệ:


Việc hoạch định chính sách tiền tệ thuộc về NHTW. Để thực thi chính sách tiền tệ đó phải sử dụng hàng loạt các công cụ như lãi suất, dự trữ bắt buộc, tái chiết khấu, thị trường mở, hạn mức tín dụng… Chính các NHTM là chủ thể chịu sự tác động trực tiếp của những công cụ này. Ngược lại, cũng qua NHTM và các định chế tài chính trung gian khác, tình hình sản lượng, giá cả, công ăn việc làm, nhu cầu TM, tổng cung tiền tệ, lãi suất, tỷ giá… của nền kinh tế được phản hồi về NHTW để Chính phủ và NHTW có những chính sách điều tiết thích hợp với tình hình nền kinh tế.

- Vai trò góp phần điều tiết vi mô, vĩ mô nền kinh tế:


NHTM thực hiện vai trò tham gia điều tiết vi mô đối với nền kinh tế biểu hiện qua các mối quan hệ của NHTM với các tổ chức kinh tế khác về mặt tín dụng, TM, thanh toán không dùng TM ..., đảm bảo hoạt động của ngân hàng và nền kinh tế được bình thường.

NHTM cũng góp phần điều tiết vĩ mô nền kinh tế thông qua chức năng tạo tiền. NHTM vẫn là nơi tập trung các khối tiền tệ lớn nhất trong nền kinh tế, muốn thực thi các chính sách tiền tệ thì NHTW phải dựa vào các khối tiền tệ này.

1.1.5.Các nghiệp vụ của NHTM9

- Nghiệp vụ tạo lập vốn, bao gồm các nghiệp vụ sau: Vốn pháp định, vốn điều lệ; Nghiệp vụ đi vay; Nghiệp vụ ký thác.

- Nghiệp vụ sử dụng vốn, bao gồm các nghiệp vụ sau: Nghiệp vụ dự trữ TM; Nghiệp vụ đầu tư chứng khoán; Nghiệp vụ cho vay.

- Các nghiệp vụ và công cụ trung gian, bao gồm: Nghiệp vụ mở tài khoản; Nghiệp vụ thanh toán không dùng TM.

- Các nghiệp vụ trên thị trường chứng khoán: Tham gia thành lập các CTCP hoặc cổ phần hóa DNNN; Giúp phát hành chứng khoán trên thị trường sơ cấp; Trung


8 GS.TS. Lê Văn Tư (2005). Ngân hàng thương mại. NXB Thống kê.

9 GS.TS. Lê Văn Tư (2005). Ngân hàng thương mại. NXB Thống kê.

gian mua bán chứng khoán trên thị trường thứ cấp; Tư vấn phát hành và mua bán chứng khoán.

- Nghiệp vụ tài trợ ngoại thương, bao gồm: Tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu; Thanh toán quốc tế; Kinh doanh ngoại tệ.

1.2. Cơ sở lý luận về Hệ thống kiểm soát nội bộ


1.2.1. Khái niệm, mục tiêu, chức năng, vai trò của KSNB


1.2.1.1. Khái niệm KSNB


Theo Chuẩn mực Kiểm toán quốc tế ISA 400: Hệ thống KSNB là toàn bộ những chính sách và thủ tục do Ban Giám đốc của đơn vị thiết kế nhằm đảm bảo việc quản lý chặt chẽ và sự hiệu quả của các hoạt động trong khả năng có thể. Các thủ tục này đòi hỏi việc tuân thủ các chính sách quản lý, bảo quản tài sản, ngăn ngừa và phát hiện gian lận hoặc sai sót, tính chính xác và đầy đủ của các ghi chép kế toán và đảm bảo lập BCTC trong thời gian mong muốn10

1.2.1.2. Mục tiêu của KSNB


- Đối với báo cáo tài chính: đảm bảo về tính trung thực và đáng tin cậy bởi vì chính người quản lý đơn vị phải có trách nhiệm lập báo cáo tài chính phù hợp chuẩn mực và chế độ kế toán hiện hành.

- Đối với tính tuân thủ : đảm bảo hợp lý việc chấp hành luật pháp và các quy định, hướng mọi thành viên trong đơn vị vào việc tuân thủ các chính sách, quy định nội bộ của đơn vị, qua đó đảm bảo đạt được những mục tiêu của đơn vị.

- Đối với sự hữu hiệu và hiệu quả của các hoạt động: giúp đơn vị bảo vệ và sử dụng hiệu quả các nguồn lực, bảo mật thông tin, nâng cao uy tín, mở rộng thị phần, thực hiện các chiến lược kinh doanh của đơn vị…

1.2.1.3. Chức năng của KSNB11

- Ngăn ngừa thiếu sót trong hệ thống xử lý nghiệp vụ.


10 Th.S Lâm Thị Hồng Hoa (2002). Giáo trình Kiểm toán ngân hàng. NXB Thống kê.

11 Th.S Lâm Thị Hồng Hoa (2002). Giáo trình Kiểm toán ngân hàng. NXB Thống kê.

- Các thủ tục kiểm soát phải được thiết kế để hướng các nghiệp vụ kinh tế được thực hiện đúng nguyên tắc quy định, nhằm ngăn chặn kịp thời các sai sót, nhầm lẫn vô tình hay cố ý có thể gây thất thoát tiền bạc hay tài sản của đơn vị, gây thiệt hại trong kinh doanh.

- Bảo vệ đơn vị trước những thất thoát tài sản có thể tránh.

- Đơn vị phải thiết lập các quy trình hoạt động, xác định rõ giới hạn tự do cá nhân và lập ra một hệ thống KSNB chặt chẽ đối với tài sản – nguồn lực cơ bản của sản xuất.

- Đảm bảo việc chấp hành chính sách kinh doanh.

- Cơ cấu KSNB cần được thiết lập bao gồm những thủ tục để đảm bảo chính sách kinh doanh của đơn vị được tất cả các nhân viên chấp hành.

1.2.1.4. Vai trò của KSNB12

- Thẩm tra tính xác thực và tính toàn vẹn của thông tin.

- Đảm bảo tuân thủ chính sách, kế hoạch, thủ tục pháp luật và các quy định.

- Bảo vệ tài sản.

- Sử dụng các nguồn lực tiết kiệm và có hiệu quả.

- Thực hiện các mục tiêu và mục đích đã đề ra cho các hoạt động hoặc chương trình.

1.2.2. Các bộ phận cấu thành hệ thống KSNB


Theo chuẩn quốc tế COSO, hệ thống KSNB bao gồm 5 thành phần liên quan đến nhau: Môi trường kiểm soát, đánh giá rủi ro, các hoạt động kiểm soát, thông tin và truyền thông, giám sát.

1.2.2.1. Môi trường kiểm soát.


Môi trường kiểm soát bao gồm toàn bộ những nhân tố có ảnh hưởng đến quá trình thiết kế, sự vận hành và tính hữu hiệu của KSNB, trong đó nhân tố chủ yếu là nhận thức và hành động của nhà quản lý. Các nhân tố chính thuộc về môi trường kiểm soát là:

- Triết lý và phong cách điều hành của nhà quản lý:


Đặc thù quản lý là những quan điểm khác nhau trong điều hành hoạt động DN

của các nhà quản lý, ảnh hưởng trực tiếp đến chính sách, chế độ, cách tổ chức kiểm


12 Kiểm toán nội bộ hiện đại (Mordern Internal Auditing - 2002). Victor Z.Brink and Herbert Witt. NXB Tài chính.

tra, kiểm soát trong DN. Nếu nhà quản lý có quan điểm kinh doanh lành mạnh, luôn tuân thủ nguyên tắc đạo đức trong kinh doanh, coi trọng tính trung thực của báo cáo tài chính và có những biện pháp để hạn chế tối đa rủi ro kinh doanh thì sẽ làm cho môi trường kiểm soát lành mạnh

- Cơ cấu tổ chức và quyền hạn, trách nhiệm của các bộ phận trong cơ cấu đó:


Cơ cấu tổ chức trong một công ty chính là sự phân chia quyền hạn, trách nhiệm giữa các thành viên trong đơn vị. Cơ cấu tổ chức được xây dựng hợp lý trong DN sẽ góp phần tạo ra môi trường kiểm soát tốt. Để thiết lập một cơ cấu tổ chức thích hợp và có hiệu quả, các nhà quản lý phải tuân thủ các nguyên tắc:

+ Thiết lập sự điều hành và sự kiểm soát trên toàn bộ hoạt động của DN, không

bỏ sót lĩnh vực nào đồng thời không có sự chồng chéo giữa các bộ phận.


+ Thực hiện sự phân chia rành mạch giữa ba chức năng: xử lý nghiệp vụ, ghi

chép sổ và bảo quản tài sản.


+ Đảm bảo sự độc lập tương đối giữa các bộ phận


- Chính sách nhân sự:


Chính sách nhân sự là yếu tố quan trọng trong môi trường kiểm soát, bao gồm toàn bộ các phương pháp quản lý nhân sự và chế độ của đơn vị đối với việc tuyển dụng, đánh giá, đề bạt, khen thưởng và kỷ luật đối với nhân viên của mình. Nếu đơn vị xây dựng và dùy trì được một đội ngũ cán bộ nhân viên tốt thì sẽ giúp giảm bớt những hạn chế vốn có của KSNB.

- Công tác kế hoạch:


Hệ thống kế hoạch và dự toán bao gồm kế hoạch sản xuất, tiêu thụ, đầu tư, sữa chữa tài sản cố định…đặc biệt là kế hoạch tài chính bao gồm các ước tính cân đối tình hình tài chính, kết quả hoạt động luân chuyển tiền trong tương lai là những nhân tố quan trọng trong quá trình kiểm soát. Nếu việc lập và thực hiện kế hoạch được tiến hành khoa học và nghiêm túc thì hệ thống kế hoạch và dự toán đó sẽ trở thành công cụ kiểm soát rất hiệu quả.

- Ủy ban kiểm soát:


Ủy ban kiểm soát gồm một số thành viên trong và ngoài Hội đồng Quản trị, không tham gia vào việc điều hành đơn vị nhưng có những đóng góp quan trọng cho việc thực hiện các mục tiêu của đơn vị thông qua việc giám sát sự tuân thủ pháp luật, quy định; giám sát việc lập Báo cáo tài chính; giữ sự độc lập của KSNB.

- Các nhân tố bên ngoài:


Ngoài các nhân tố bên trong nói trên, hoạt động của đơn vị còn chịu ảnh hưởng của môi trường bên ngoài như pháp luật, sự kiểm soát của cơ quan nhà nước, ảnh hưởng của chủ nợ, khách hàng,…Dù các nhân tố này không thuộc sự kiểm soát của đơn vị nhưng nó có ảnh hưởng rất lớn đến thái độ, phong cách điều hành của các nhà quản lý cũng như sự thiết kế và vận hành các quy chế, thủ tục của KSNB.

1.2.2.2. Đánh giá rủi ro.


Đánh giá rủi ro là xác định và phân tích các rủi ro liên quan đến việc thực hiện mục tiêu, tạo thành một cơ sở để xác định những rủi ro cần được quản lý cũng như cách thức quản lý các rủi ro đó. Bất kỳ hoạt động nào đối mặt với nhiều rủi ro từ các yếu tố bên ngoài và bên trong tổ chức đều cần được xem xét đánh giá.

- Các yếu tố bên trong như: sự quản lý thiếu minh bạch, không coi trọng đạo đức nghề nghiệp; chất lượng cán bộ thấp, sự cố hỏng hóc của hệ thống máy tính, của trang thiết bị, hạ tầng cơ sở; tổ chức và cở sở hạ tầng không thay đổi kịp với sự thay đổi, mở rộng của sản xuất.; chi phí cho quản lý và trả lương cao, thiếu sự kiểm tra, kiểm soát thích hợp...

- Các yếu tố bên ngoài như: thay đổi công nghệ làm thay đổi quy trình vận hành; người tiêu dùng thay đổi thói quen, nhu cầu làm các sản phẩm và dịch vụ hiện hành bị lỗi thời; sư xuất hiện yếu tố cạnh tranh không mong muốn tác động đến giá cả và thị phần; sự ban hành của một đạo luật hay chính sách mới làm ảnh hưởng đến hoạt động của tổ chức...

Để tránh bị thiệt hại do các tác động nêu trên, tổ chức cần thường xuyên: xác

định rủi ro hiện hữu và tiềm ẩn. Phân tích ảnh hưởng của chúng kể cả tần suất xuất

hiện và xác định các biện pháp để quản lý và giảm thiểu tác hại của chúng. Trong điều kiện môi trường kinh tế luôn thay đổi và nhiều biến động như hiện nay, việc xây dựng một cơ chế để đối phó với các rủi ro là điều cần thiết.

1.2.2.3. Các hoạt động kiểm soát.


Các hoạt động kiểm soát là các chính sách và thủ tục giúp đảm bảo chỉ thị của Ban lãnh đạo được thực thi nghiêm túc trong toàn tổ chức, đảm bảo các hành động cần thiết được thực hiện để giải quyết các rủi ro nhằm đạt được các mục tiêu của tổ chức. Chúng bao gồm một loạt các hoạt động đa dạng như cấp phép, ủy quyền, xác minh, đối chiếu, đánh giá hiệu suất hoạt động, đảm bảo an toàn tài sản và phân công nhiệm vụ.

Kiểm soát quản lý: là các thủ tục kiểm soát do các nhà quản lý xây dựng dựa

trên ba nguyên tắc cơ bản:


- Nguyên tắc phân công phân nhiệm: trách nhiệm và công việc cần được phân chia cụ thể cho nhiều bộ phận và cho nhiều người trong bộ phận. Mục đích của nó là không một cá nhân hay bộ phận nào được thực hiện mọi mặt của một nghiệp vụ từ khâu đầu đến khâu cuối. Việc phân công phân nhiệm còn có tác dụng tạo ra sự chuyên môn hóa và giúp cho việc kiểm tra và thúc đẩy lẫn nhau trong công việc.

- Nguyên tắc bất kiêm nhiệm: quy định sự cách ly thích hợp về trách nhiệm trong các nghiệp vụ có liên quan nhằm ngăn ngừa các sai phạm và hành vi lạm dụng quyền hạn. Nguyên tắc này đòi hỏi sự tách biệt về trách nhiệm đối với một số công việc như:

+ Trách nhiệm thực hiện nhiệm vụ và trách nhiệm ghi chép sổ kế toán.


+ Trách nhiệm bảo quản tài sản và trách nhiệm ghi chép sổ kế toán.

+ Chức năng kế toán và chức năng tài chính.

+ Chức năng thực hiện và chức năng kiểm soát…

- Nguyên tắc ủy quyền và phê chuẩn: người quản lý đơn vị không thể và cũng không nên giải quyết mọi vấn đề trong đơn vị, mà thực hiện sự ủy quyền cho cấp dưới. Theo sự ủy quyền của người quản lý, các cấp dưới được giao quyết định và giải quyết một số công việc trong một phạm vi nhất định. Phê chuẩn là biểu hiện cụ thể của việc

quyết định và giải quyết một công việc trong một phạm vi nhất định. Quá trình ủy quyền được tiếp tục mở rộng xuống các cấp thấp hơn tạo nên một hệ thống phân chia trách nhiệm và quyền hạn mà vẫn không mất tính tập trung của đơn vị.

Kiểm soát vật chất


Hoạt động này được thực hiện cho các lọai sổ sách và tài sản, những ấn chỉ đã được đánh số trước nhưng chưa sử dụng, các chương trình tin học và những hồ sơ dữ liệu. Chỉ những người được ủy quyền mới được phép tiếp cận với tài sản của đơn vị.

Việc so sánh, đối chiếu giữa sổ sách kế toán và tài sản hiện có trên thực tế bắt buộc phải được thực hiện định kỳ để phát hiện chênh lệch, điều tra nguyên nhân, nhờ đó sẽ phát hiện được những yếu kém trong thủ tục kiểm soát. Nếu không thì tài sản có thể bị bỏ phế, mất mát hoặc có thể không phát hiện được những hành vi đánh cắp.

Kiểm soát kế toán


Kiểm soát kế toán là một thành phần quan trọng, đó là việc kiểm tra chặt chẽ các chứng từ sổ sách kế toán từ việc tính toán các con số, số liệu, xem xét các chữ ký liên quan đã đầy đủ và chính xác chưa, đến kiểm tra việc luân chuyển chứng từ sổ sách…Kiểm soát kế toán cần đảm bảo các nguyên tắc sau:

- Các chứng từ phải được đánh số liên tục trước khi sử dụng để có thể dễ kiểm

soát, tránh thất lạc và dễ truy cập khi cần thiết.

- Chứng từ cần được lập ngay khi nghiệp vụ vừa xảy ra, hoặc càng sớm càng tốt.


- Chứng từ kế toán phải lập rõ ràng, đầy đủ, kịp thời, chính xác theo nội dung quy định trên mẫu, đủ số liên quy định.

- Chứng từ kế toán phải có đầy đủ chữ ký, do người có thẩm quyền hoặc người được

uỷ quyền ký, người ký tên trên chứng từ phải chịu trách nhiệm về nội dung của chứng từ.

- Phải tổ chức luân chuyển chứng từ khoa học và kịp thời, nghĩa là chứng từ chỉ đi qua các bộ phận có liên quan đến nghiệp vụ, và phải được xử lý nhanh chóng để chuyển cho bộ phận tiếp theo.

- Sổ sách cần phải đóng chắc chắn, đánh số trang, quy định nguyên tắc ghi

chép, có chữ ký xét duyệt của người kiểm soát…

1.2.2.4. Thông tin và truyền thông.

Thông tin trong tổ chức cần được xác định, kiểm soát và truyền đạt theo cách thức và thời gian nhất định để bảo đảm tính chính xác, đầy đủ, tin cậy và được thực thi kịp thời, đúng đắn. Nhà quản lý cần phải kiểm soát không chỉ các thông tin, dữ liệu nội bộ mà còn phải nắm bắt được thông tin về các hoạt động, sự kiện bên ngoài để làm cơ sở cho việc ra quyết định.

Trong hệ thống thông tin, hệ thống thông tin kế toán là một phân hệ quan trọng. Đầu vào của hệ thống là các sự kiện kinh tế được biểu hiện dưới dạng các nghiệp vụ kế toán, đầu ra của hệ thống là báo cáo kế toán. Ngoài những yêu cầu thông thường của bất kỳ hệ thống thông tin nào (tính kịp thời, hiệu quả,… ), các mục tiêu chủ yếu mà hệ thống thông tin kế toán phải đạt được như sau:

- Tính có thật


- Tính đầy đủ

- Sự đánh giá


- Sự phân loại


- Tính đúng kỳ

- Chuyển sổ và tổng hợp chính xác


- Trình bày và khai bảo

1.2.2.5. Giám sát


Giám sát là quá trình theo dõi và đánh giá chất lượng thực hiện việc kiểm soát nội bộ để đảm bảo nó được triển khai, được điều chỉnh khi môi trường thay đổi hay được cải thiện khi có khiếm khuyết.

Hệ thống kiểm soát nội bộ cần phải được giám sát- đây là một quá trình đánh giá chất lượng hoạt động của hệ thống theo thời gian, được thực hiện thông qua hoạt động giám sát liên tục hoặc giám sát định kỳ hoặc kết hợp cả hai. Giám sát liên tục được thực hiện trong quá trình hoạt động của tổ chức, bao gồm quản lý thường xuyên và theo dõi, giám sát các nhân viên thực hiện nhiệm vụ. Phạm vi và tần số của các hoạt động giám sát định kỳ sẽ phụ thuộc chủ yếu vào việc đánh giá rủi ro và hiệu quả của quy trình giám sát

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 20/04/2022