Bia đá thế kỷ XVII của một số chùa ở ngoại thành Hà Nội (khảo sát 10 huyện phía tây và phía nam Hà Nội) - 2

thù của lịch sử dân tộc chiến tranh liên miên, đã khiến cho các công trình kiến trúc cổ này bị hủy hoại. Bởi vậy, các công trình kiến trúc này thường xuyên được tái tạo, tu bổ. Công việc trùng tu đó thường in đậm dấu ấn của thời đại. Tuy nhiên, không phải lúc nào cũng có thể nhận ra và bóc tách được đặc điểm của thời đại qua các lớp kiến trúc với từng thời điểm tạo dựng, tu bổ khác nhau. Bởi vậy, việc nghiên cứu kiến trúc chùa để góp phần vào công tác trùng tu, tôn tạo giữ nguyên được bản sắc kiến trúc cổ là hết sức quan trọng và cấp thiết, đòi hỏi phải có nguồn tư liệu chân xác. Với những gì còn sót lại và bằng những kết quả nghiên cứu của khảo cổ học lịch sử, đặc biệt cùng với việc nghiên cứu bia đá thế kỷ XVII chúng ta cũng phần nào phác hoạ được hình dáng cũng như đặc trưng kiến trúc của những ngôi chùa cổ trong giai đoạn này.

1.3. Như nhiều nhà nghiên cứu chùa Việt đã từng nhận xét, thế kỷ XVII là thế kỷ bùng nổ của các ngôi chùa lớn ở khu vực đồng bằng Bắc Bộ. Trong đó 13 huyện ngoại thành ở phía Tây và phía Nam Hà Nội (bao gồm: Thường Tín, Phú Xuyên, Thạch Thất, Quốc Oai, Hoài Đức, Phúc Thọ, Sơn Tây, Ba Vì, Thanh Oai, Ứng Hòa, Mỹ Đức, Chương Mỹ, Hà Đông) được sáp nhập từ tỉnh Hà Tây cũ từ sau ngày 01.8.2008 đã có 469 ngôi chùa được xây dựng qua

các thời kỳ khác nhau, trong đó có 132 ngôi chùa được xếp hạng cấp Bộ, 47 ngôi chùa xếp hạng cấp tỉnh và 290 ngôi chùa chưa được xếp hạng1, điều đáng quan tâm là có 07 ngôi chùa đã được xếp vào loại di tích Quốc gia đặc biệt2. Tuy nhiên, ở khu vực này có 38 ngôi chùa3 có niên đại thế kỷ XVII,



1 Theo thống kê của Viện Bảo tồn Di tích.

2 Di tích Quốc gia đặc biệt gồm: chùa Hương- Mỹ Đức, chùa Đậu- Thường Tín, chùa Bối Khê- Thanh Oai, chùa Thầy- Quốc Oai, chùa Mía, chùa Tây Phương- Sơn Tây (những ngôi chùa này hiện nay hầu hết còn giữ đuợc kiến trúc thế kỷ XVII, chỉ riêng chùa Tây Phương là kiến trúc thế kỷ XVIII).

3 Thống kê của Viện Bảo tồn Di tích thì: trong tổng số 469 ngôi chùa/ 13 huyện thì: Thời Lý có 04 chùa, thời Trần có 01 chùa, thế kỷ XV có 01, thế kỷ XVI có 04 chùa, thế kỷ XVII có 38 chùa, thế kỷ XVIII có 15 chùa, thế kỷ XIX có 307 chùa…

trong đó những ngôi chùa đảm bảo được cả hai yếu tố: vừa bảo lưu được giá trị kiến trúc điêu khắc trang trí thế kỷ XVII, lại vừa lưu giữ được các tấm bia đồng niên đại thì số lượng không nhiều, chỉ dừng lại ở con số 17 chùa với 29 tấm bia đá. Danh sách 17 ngôi chùa gồm chùa Bối Khê, chùa Đậu, chùa Cống Xuyên, chùa Hưng Giáo, chùa Hương, chùa La Khê, chùa Lại An, chùa Lê Dương, chùa Mía, chùa Mậu Lương, chùa Mui, chùa Nhị Khê, chùa Sổ, chùa Thầy, chùa Thị Nguyên, chùa Trăm Gian, chùa Tường Phiêu. Những di tích này chứa đựng nhiều nét đặc sắc trên mọi phương diện như lịch sử, văn hóa, mỹ thuật, kiến trúc...

Với những lý do nêu trên, chúng tôi đã chọn đề tài nghiên cứu: “Bia đá thế kỷ XVII của một số ngôi chùa ở ngoại thành Hà Nội (Khảo sát 10 huyện phía Tây và phía Nam Hà Nội)” với mong muốn đi sâu nghiên cứu từ hình thức tới nội dung phản ánh của hệ thống bia đá thế kỷ XVII được dựng tại các chùa Việt có đồng niên đại, nhằm mục đích góp phần hiểu thêm về lịch sử, kiến trúc chùa Việt cũng như nghệ thuật điêu khắc trong giai đoạn lịch sử này.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 222 trang tài liệu này.

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề:

Cho đến nay, có rất nhiều công trình nghiên cứu về bia đá được xuất bản. Trong “Văn bia thời Lê xứ Kinh Bắc và sự phản ánh sinh hoạt làng xã” của PGS.TS. Phạm Thị Thuỳ Vinh xuất bản năm 2003, tác giả đi sâu vào khai thác nội dung của toàn bộ văn bia xứ Kinh Bắc thời Lê (thời Lê Sơ và thời Lê Trung Hưng), trong đó khai thác một cách khá kỹ lưỡng về vấn đề sinh hoạt làng xã. Tác giả nghiên cứu về việc xây dựng các công trình công cộng về tín

Bia đá thế kỷ XVII của một số chùa ở ngoại thành Hà Nội (khảo sát 10 huyện phía tây và phía nam Hà Nội) - 2

ngưỡng (đình, chùa, văn chỉ, từ đường); các công trình phục vụ đời sống kinh tế của cộng đồng (quán chợ, tu sửa cầu, bến đò); sự tranh giành ruộng đất;

những khó khăn thường xuyên của các làng xã về sưu thuế, công dịch; vị trí


của người phụ nữ trong hoạt động của làng xã; vấn đề về giáp và tổ chức làng xã được phản ánh qua bia đáNgoài ra, tác giả đã nghiên cứu về quá trình

tạo tác văn bản và trang trí hoa văn trên văn bia Kinh Bắc thời Lê. Đó chính là cơ sở để chúng tôi so sánh với những bia đá trong các ngôi chùa ở xứ Kinh Bắc với những bia đá ở 10 huyện phía Tây và phía Nam ngoại thành Hà Nội.

Bên cạnh đó“Một số vấn đề về văn bia Việt Nam” của Trịnh Khắc Mạnh đi sâu phân tích các hình thức tồn tại và đặc điểm về văn bản, giá trị của văn bia Việt Nam khi nghiên cứu tư tưởng chính trị, đời sống văn hoá xã hội, đặc điểm thể loại văn học Việt Nam thời trung đại, văn bia chữ Nôm... Ngoài ra tác giả đã chọn để giới thiệu 20 văn bia. Tuy nhiên, vấn đề chạm khắc trên bia đá cũng như nội dung chung của văn bia tác giả chưa chú ý đề cập đến.

Trong lĩnh vực nghiên cứu chuyên sâu về mỹ thuật của các bia đá có thể kể đến các cuốn“Trang trí trong mỹ thuật truyền thống của người Việt” của Trần Lâm Biền mang tính chất tổng hợp các loại hình trang trí từ thời Đông Sơn cho đến thời Nguyễn trên tất cả các chất liệu, các loại hình bia đá, nhang án, tượng, trên kiến trúc gỗ... Qua đó đưa ra những đặc điểm chung nhất về mỹ thuật qua từng thời kỳ, chứ chưa đi sâu nghiên cứu những hình tượng chạm khắc trên bia đá. Hay Chu Quang Trứ trong cuốn“Mỹ thuật Lý Trần - Mỹ thuật Phật giáo Việt Nam” đề cập đến “Bia và văn bia chùa Việt Nam” từ thời Lý cho đến thời Nguyễn [64; 441 - 487]4. Tuy nhiên, những mô tả này

cũng chỉ mang tính chất sơ lược và chưa đầy đủ về nội dung của một vài bia đá tiêu biểu trong các di tích như chùa Đọi (Hà Nam), chùa Tây Phương (Hà Nội)... Những ý nghĩa biểu tượng của mỹ thuật, trang trí chỉ đề cập đến một cách sơ lược về những nét chạm khắc của một vài bia, chưa có nhận định mang tính chất khái quát về chạm khắc bia đá qua từng thời kỳ.


4 Bài này cũng đã được đăng trên tạp chí Phật học số 3 năm 1997.

Ngoài ra, Viện Mỹ Thuật còn có những tác phẩm như “Mỹ thuật thời Lý”, “Mỹ thuật thời Trần”, “Mỹ thuật thời Mạc”... Đây là những công trình mang tính chuyên khảo cho từng thời kỳ, những biểu tượng chạm khắc được nêu lên mang tính chất tổng hợp trên mọi chất liệu, mọi loại hình di tích; đồng thời đây là những công trình để chúng tôi tìm hiểu thêm về phong cách nghệ thuật thời kỳ trước đó, để thấy được những biến chuyển lớn trong nghệ thuật chạm khắc dân gian thế kỷ XVII.

Một số khóa luận, luận án cũng bắt đầu đặt vấn đề nghiên cứu bia đá thế kỷ XVII theo hướng tiếp cận mỹ thuật. Năm 1975, Tăng Bá Hoành đã nghiên cứu “Sự chuyển biến hoa văn đến trang trí bia đá thế kỷ XVI - XVIII”. Với số lượng 87 trang, tác giả đã đề cập đến các hình tượng trang trí trên bia đá trong suốt 3 thế kỷ XVI, XVII, XVIII. Tuy nhiên tác giả đã viết về trang trí bia đá trong một thời kỳ khá dài, do đó việc tập trung vào phân tích, miêu tả những bia đá trong giai đoạn thế kỷ XVII còn hạn chế, chỉ chú trọng vào việc mô tả các hình tượng chạm khắc, chưa đưa ra được những đặc trưng riêng về trang trí bia trong thời kỳ này. Đến năm 1979, Đặng Kim Ngọc đã có khoá luận“Bước đầu tìm hiểu nghệ thuật trang trí bia đá thế kỷ XV- XVIII”. Trong đó tác giả chú trọng đến việc tìm hiểu hình tượng trang trí trên bia qua các thời kỳ từ thế kỷ XV đến thế kỷ XVIII, không đi sâu vào hình dáng, kỹ thuật chạm khắc, chưa đưa ra được các tiêu chí để phân biệt một cách chân xác đặc điểm bia đá các thời kỳ, đặc biệt là thế kỷ XVII tác giả mới chỉ đề cập đến rất sơ sài, cần được nghiên cứu sâu hơn nữa.

Luận án Tiến sĩ năm 2001 của Nguyễn Quốc Tuấn về“Di tích chùa Bối Khê (Hà Tây)”, với phụ lục khá dày dặn, là bản dịch văn bia của chùa từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XIX, trong đó tác giả đã khai thác nội dung về thời điểm tạo dựng và trùng tu chùa Bối Khê qua các thời kỳ khác nhau. Bên cạnh đó luận án Tiến sĩ của Nguyễn Văn Tiến năm 2001 về “Di tích chùa Thầy (Hà

Tây)” cũng đã có những bản dịch bia đá, trong đó đã dịch 02 văn bia thế kỷ XVII và trong phần chính văn cũng đã đề cập đến những lần trùng tu chùa. Bên cạnh đó, luận văn Thạc sĩ của Phạm Thị Thu Hương (2000) về “chùa Trăm Gian những giá trị văn hóa nghệ thuật”- trường Đại học Văn hóa đã đề cập đến những lần trùng tu chùa qua văn bia, nhưng cũng rất sơ sài, phần phụ lục chưa có các bản phiên âm, dịch nghĩa của những văn bia hiện còn trong chùa.

Ngoài các công trình đã được xuất bản hoặc những luận án, luận văn còn có một số bài viết về bia đá được đăng rải rác trên các tạp chí. Tạp chí Hán Nôm có nhiều tác giả đã đề cập đến việc nghiên cứu bia đá. Tác giả Nguyễn Huy Thức có bài “Bước đầu tìm hiểu văn bia ở một huyện thuộc đồng bằng Bắc Bộ”; “Đôi nét về bia hậu” số 2 năm 1987 của Dương Thị Phe và Phạm Thị Thoa; “Đặc điểm thể loại văn bia Việt Nam, tạp chí Hán Nôm, số 4, 1993 của Trịnh Khắc Mạnh; “Văn bia chợ Việt Nam - Giá trị tư liệu khi tìm hiểu các vấn đề sinh hoạt xã hội thời phong kiến” số 5, năm 2006 hoặc “Một số đặc điểm về nội dung và hình thức của văn bia Lê Sơ” đăng trên số 4 năm 2008 của tác giả Phạm Thị Thuỳ Vinh... Những bài viết này chỉ đề cập đến một vài khía cạnh mà nội dung bia đá phản ánh qua các thời kỳ trên địa bàn vùng đồng bằng Bắc Bộ như vấn đề về bầu hậu, hoạt động buôn bán ở các làng xã... vấn đề tạo dựng và trùng tu các ngôi chùa qua văn bia hầu như chưa được quan tâm nhiều.

Trên tạp chí Khảo cổ học có bài “Vài nét về tình hình sưu tầm và nghiên cứu văn bia Việt Nam” của tác giả Hoàng Lê, số 2 năm 1982; hoặc “Tìm hiểu nghệ thuật trang trí bia đá thế kỷ XVIII” của Lê Đình Phụng, số 2 năm 1987.

Bên cạnh đó, các tác giả nước ngoài cũng đã công bố một số công trình nghiên cứu liên quan tới vấn đề bia đá ở Việt Nam. Năm 1982, M.Bernanse đã viết“Nghệ thuật trang trí ở Bắc Kỳ” (tư liệu Bảo tàng Lịch sử Việt Nam)

trong đó ông có đề cập đến những đặc điểm trang trí trên các chất liệu gốm, đá, gỗ... Tuy nhiên, học giả này cũng chỉ đưa ra những khái niệm chung nhất cho tất cả các loại hình trang trí trên kiến trúc, chứ chưa có nhận định cụ thể về chạm khắc trên bia đá.

Tại Matxcơva năm 1993 luận án Phó Tiến sĩ về “Văn bia Việt Nam”của học giả người Nga là Phedorin, được xem xét dưới góc độ lịch sử. Ngoài ra Phedorin có bài viết “Hệ phương pháp và một vài kết quả phân tích thống kê tư liệu văn bia Việt Nam khi nghiên cứu lịch sử xã hội” (bản dịch của Trịnh Khắc Mạnh) đăng trên tạp chí Hán Nôm số 2 năm 1992.

Tháng 11-1997“Bia Văn Miếu Hà Nội” được quỹ Agence de la Francôphnie (ACCT) của Tổ chức hợp tác Văn hoá và Kỹ thuật của Cộng đồng Pháp ngữ tài trợ xuất bản bằng song ngữ Pháp - Việt...

Các công trình của học giả nước ngoài về văn bia mới chỉ dừng lại ở mức độ giới thiệu, phần nào phân tích về nội dung của giá trị văn bia, nhưng chỉ đề cập một cách sơ lược, chưa có sự đúc rút việc tạo dựng trùng tu di tích, nhất là những bia đá có giá trị về lịch sử - văn hóa - xã hội ở thế kỷ XVII, đồng thời chưa có tác phẩm chuyên biệt nào nghiên cứu đến hình dáng, kỹ thuật tạo tác và các hình thức trang trí bia đá thời kỳ này.

Tóm lại, có thể thấy rất hiếm những công trình nghiên cứu, những luận án, luận văn đặt vấn đề kết hợp giữa nghiên cứu về chùa và nghiên cứu bia đá trong giai đoạn thế kỷ XVII. Bởi vậy, giá trị của bia đá thế kỷ XVII chưa được khai thác triệt để. Một trong những nội dung quan trọng của hệ thống bia đá đó đề cập tới cách thức tạo dựng và trùng tu di tích chùa vẫn chưa được khai thác. Việc khai thác nội dung này cần được quan tâm sâu hơn nữa, từ đó góp phần bảo tồn và trùng tu những ngôi chùa cổ trong hiện tại và tương lai. Đây cũng chính là mục đích mà luận văn hướng tới.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:


Chúng tôi chọn 29 tấm bia đá thế kỷ XVII trong 17 ngôi chùa tiêu biểu đáp ứng được hai tiêu chí, thứ nhất là những ngôi chùa vẫn giữ được kiến trúc mang phong cách nghệ thuật thế kỷ XVII, thứ hai là trong những ngôi chùa đó còn lưu giữ được những tấm bia đá được tạo tác trong giai đoạn thế kỷ XVII làm đối tượng nghiên cứu và giới hạn trong phạm vi 10 huyện ngoại thành ở phía Tây và phía Nam Hà Nội (trước đây thuộc tỉnh Hà Tây và đến ngày 01.8.2008 được sáp nhập trở thành các huyện thuộc ngoại thành Hà Nội).

4. Phương pháp nghiên cứu:

Trong khi hoàn thành luận văn này chúng tôi sử dụng một số phương pháp chính như phương pháp điều tra điền dã, phương pháp văn bản học. Trong đó phương pháp điều tra điền dã là phương pháp tiếp cận trực tiếp với các nguồn sử liệu bia đá tại các địa phương, sử dụng các thao tác điều tra, sưu tầm, chụp ảnh, dập thác bản... trên cơ sở đó sẽ tiến hành thống kê, phân loại, mô tả, phân tích... rút ra những giá trị lịch sử, văn hóa, mỹ thuật của nguồn tư liệu này. Bên cạnh đó phương pháp văn bản học được áp dụng chủ yếu đối với các nguồn tài liệu thành văn, đây là phương pháp chính để xác định niên đại tương đối của các bia đá không ghi niên đại tạo tác hoặc có những bia đá đã bị mờ. Căn cứ vào hình tượng chạm khắc trên trán bia, diềm bia, chân bia, kiểu chữ, chất liệu sử dụng… để xác định niên đại của bia và khai thác thông tin.

Ngoài ra, chúng tôi còn sử dụng một số phương pháp khác để hỗ trợ trong quá trình thực hiện luận văn như phương pháp so sánh, phương pháp phân tích, tổng hợp… Trong quá trình nghiên cứu hoa văn trang trí trên bia đá có thể đối chiếu với những nét chạm khắc trên kiến trúc gỗ cổ truyền được dựng cùng thời. Từ đó đưa ra những nhận xét về hoa văn trang trí cho từng

thời kỳ, đồng thời có thể xác định một cách tương đối niên đại khởi dựng cho di tích, đưa ra những nhận xét chung, những đặc trưng cơ bản dễ nhận biết, làm cơ sở cho việc xác định niên đại của loại hình di vật này.

5. Đóng góp của luận văn:

- Luận văn nghiên cứu mang tính chất tổng hợp về những hình tượng chạm khắc trên bia đá thế kỷ XVII trong một số ngôi chùanViệt. Từ đó đưa ra những tiêu chí để xác định niên đại của bia đá mang tính chất tương đối, làm cơ sở để góp phần vào những giá trị của di sản văn hoá vật thể, bổ sung thêm phần khuyết thiếu của nghệ thuật chạm khắc cổ truyền.

- Luận văn phân tích việc tạo dựng, trùng tu các ngôi chùa được phản ánh qua bia đá thế kỷ XVII, từ đó có thể hiểu được cách thức tạo dựng, hay phương pháp trùng tu của người xưa, qua đó có thể vận dụng vào thực tiễn công tác trùng tu di tích hiện nay. Nó có ý nghĩa khoa học đối với cả nghiên cứu văn bản Hán Nôm và mỹ thuật truyền thống của người Việt.

- Góp phần nghiên cứu chùa Việt cũng như lịch sử, văn hóa của cộng đồng cư dân khu vực phía Tây và phía Nam ngoại thành Hà Nội trong giai đoạn thế kỷ XVII.

6. Bố cục của luận văn:

Ngoài phần mở đầu, kết luận, luận văn được chia thành 3 chương: Chương 1: Vài nét về bia đá thế kỷ XVII và 17 ngôi chùa tiêu biểu của 10 huyện ngoại thành Hà Nội:

Trong chương này chúng tôi đề cập đến đặc điểm chung của một số huyện ngoại thành Hà Nội, tình hình kinh tế - văn hóa - xã hội Việt Nam thế kỷ XVII, đặc biệt nhấn mạnh đến sự phát triển Phật giáo giai đoạn này tác động đến bia đá trong các ngôi chùa Việt.

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 23/06/2022