bình quân đầu người theo giá thực tế khoảng 3.000 USD [36, tr.103]. Về phát triển công nghiệp, Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020 khẳng định: “Tỷ trọng các ngành công nghiệp và dịch vụ chiếm khoảng 85% trong GDP. Giá trị sản phẩm công nghệ cao đạt khoảng 45% trong tổng GDP. giá trị sản phẩm công nghiệp chế tạo chiếm khoảng 40% trong tổng giá trị sản xuất công nghiệp” [36, tr.104].
Đối với chủ trương phát triển công nghiệp giai đoạn 2011-2015, Đại hội lần thứ XI xác định: Cơ cấu lại, xây dựng nền công nghiệp theo hướng phát triển mạnh những ngành có tính nền tảng, có lợi thế so sánh và có ý nghĩa chiến lược đối với sự phát triển nhanh, hiệu quả, bền vững, nâng cao tính độc lập, tự chủ của nền kinh tế, từng bước có khả năng tham gia sâu, có hiệu quả vào mạng sản xuất và phân phối toàn cầu. Ưu tiên phát triển và hoàn thành những công trình then chốt về cơ khí chế tạo, sản xuất máy móc, thiết bị thay thế nhập khẩu cho công nghiệp, nông nghiệp, xây dựng; công nghiệp công nghệ cao sản xuất linh kiện diện tử, máy tính, công nghiệp dầu khí, điện, than, khai khoáng, hoá chất, luyện thép, xi măng, phân đạm..., công nghiệp hỗ trợ, công nghiệp quốc phòng, an ninh với trình độ công nghệ ngày càng cao, sạch, tiêu tốn ít nguyên liệu, năng lượng, tăng sức cạnh tranh và giá trị gia tăng.
Ưu tiên phát triển công nghiệp phục vụ nông nghiệp và nông thôn, đặc biệt là công nghiệp sản xuất trang thiết bị, máy móc làm đất, thu hoạch, bảo quản, chế biến sản phẩm nông - lâm - thuỷ sản. Xây dựng các ngành hàng chế biến có sức cạnh tranh cao; tăng nhanh giá trị gia tăng của các sản phẩm, làm cơ sở thúc đẩy sản xuất nông, lâm nghiệp phát triển; tạo thêm việc làm và tăng thu nhập của người dân; tạo sản phẩm có chất lượng cao, bảo đảm an toàn thực phẩm và vệ sinh công nghiệp, nâng cao khả năng cạnh tranh trong nước và quốc tế.
Phát triển năng lực nghiên cứu, thiết kế, chế tạo các sản phẩm công nghiệp có công nghệ tiên tiến, giá trị gia tăng cao, nhất là các máy điều khiển kỹ thuật số, hệ thống tự động hoá, có khả năng xuất khẩu, thay thế nhập khẩu, nâng cao tỷ lệ nội địa hoá sản phẩm.
Bố trí hợp lý công nghiệp trên các vùng; phát huy hiệu quả các KCN, CCN hiện có và đẩy mạnh phát triển công nghiệp theo hình thức cụm, nhóm sản phẩm, tạo thành các tổ hợp công nghiệp quy mô lớn, hiệu quả cao; đẩy mạnh việc xây
dựng các khu công nghệ cao; hình thành và phát triển các khu kinh tế tổng hợp ven biển và các khu kinh tế cửa khẩu [36, tr.193-194].
Chủ trương phát triển kinh tế công nghiệp của Đảng giai đoạn 2005-2015 nhấn mạnh yêu cầu phát triển hài hòa giữa công nghiệp với các ngành, các lĩnh vực khác, đến vấn đề phát triển bền vững, bảo vệ môi trường. Chủ trương đó đã định hướng quan trọng cho các Đảng bộ địa phương vận dụng vào điều kiện, hoàn cảnh địa phương mình, phát triển công nghiệp theo định hướng chung của Đảng, góp phần vào việc thực hiện thành công những mục tiêu mà Đảng đã đề ra.
3.2.2. Chủ trương của Đảng bộ tỉnh Bình Dương về đẩy mạnh phát triển công nghiệp
Có thể bạn quan tâm!
- Chỉ Đạo Công Tác Đào Tạo, Thu Hút Và Phát Triển Nguồn Nhân Lực Cho Công Nghiệp
- Chỉ Đạo Công Tác Bảo Vệ Môi Trường Trong Phát Triển Công Nghiệp
- Yêu Cầu Đẩy Mạnh Phát Triển Công Nghiệp Ở Bình Dương Trong Giai Đoạn Mới
- Chỉ Đạo Tiếp Tục Xây Dựng, Phát Triển Hệ Thống Kết Cấu Hạ Tầng - Kỹ Thuật Công Nghiệp
- Chỉ Đạo Công Tác Đào Tạo, Thu Hút Và Phát Triển Nguồn Nhân Lực Chất Lượng Cao
- Chỉ Đạo Công Tác Bảo Vệ Môi Trường Đảm Bảo Phát Triển Công Nghiệp Theo Hướng Bền Vững
Xem toàn bộ 185 trang tài liệu này.
Sau 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Bình Dương lần thứ VII, kinh tế của tỉnh Bình Dương liên tục phát triển với tốc độ khá cao, GDP của tỉnh tăng trung bình 15,3%, chỉ tiêu đề ra (13-14%). Trong đó, công nghiệp là ngành có tốc độ phát triển mạnh nhất. Giá trị sản xuất công nghiệp tăng bình quân 35,6%. Đây là cơ sở quan trọng để Đảng bộ tỉnh Bình Dương hoạch định chủ trương, chính sách trong giai đoạn tiếp theo sát hợp hơn, hiệu quả hơn, đáp ứng yêu cầu của thời kỳ mới. Đại hội Đảng bộ tỉnh Bình Dương lần thứ VIII (12/2005), đã đặt ra mục tiêu tổng quát của giai đoạn 2006-2010 là tạo ra bước đột phá nhằm đẩy mạnh “tăng trưởng kinh tế với tốc độ cao và bền vững…”. “Nâng cao chất lượng phát triển, tạo nền tảng đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển kinh tế tri thức, gắn với hội nhập vùng, khu vực và quốc tế” [44, tr.93].
Đại hội đề ra chủ trương phát triển công nghiệp trong thời gian tới là “phát huy và tập trung mọi điều kiện thuận lợi để phát triển công nghiệp toàn diện, vừa đẩy mạnh tăng trưởng về quy mô, đồng thời chú trọng nâng cao chất lượng phát triển theo hướng bền vững. Phát triển công nghiệp gắn với phát triển đô thị và bảo vệ môi trường” [44, tr.96].
Những kết quả đã đạt được sau khi tái lập tỉnh đến năm 2005 cho thấy công nghiệp Bình Dương có tốc độ phát triển rất nhanh so với các tỉnh thành trong Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam. Tuy nhiên, công nghiệp Bình Dương vẫn còn những hạn chế nhất định, chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế so sánh của địa phương. Để nâng cao chất lượng phát triển của công nghiệp Bình Dương, điều quan trọng là
tỉnh phải đầu tư phát triển những ngành có công nghệ tiên tiến, có giá trị cao, có sức cạnh tranh trên thị trường; đồng thời, phải xác định được các ngành công nghiệp mũi nhọn, công nghiệp chủ lực để vừa nâng cao chất lượng sản phẩm, vừa nâng cao khả năng cạnh tranh. Các ngành đó phải đóng vai trò dẫn dắt công nghiệp phát triển cũng như đổi mới công nghệ, kỹ thuật nhằm đáp ứng nhu cầu thị trường trong nước và quốc tế. Trên cơ sở đó, Đại hội chủ trương:
Phát triển công nghiệp với công nghệ tiên tiến, sản phẩm có sức cạnh tranh cao. Xây dựng chương trình ưu tiên phát triển các ngành công nghiệp mũi nhọn, kỹ thuật cao, các ngành công nghiệp chủ lực tạo giá trị gia tăng cao; các ngành công nghiệp hỗ trợ… Đẩy mạnh việc áp dụng các hệ thống quản lý chất lượng, quản lý môi trường tiên tiến (ISO 9000, ISO 14000…) [44, tr.96-97].
Đối với các ngành nghề thủ công truyền thống đã có một thời kỳ tạo ra giá trị xuất khẩu, giá trị sản xuất công nghiệp cao cho tỉnh Sông Bé, trong điều kiện mới, mặc dù giá trị đóng góp của các ngành này cho giá trị toàn ngành công nghiệp không nhiều, nhưng giá trị truyền thống, giá trị văn hóa lại rất đáng trân trọng và giữ gìn. Do vậy, tỉnh có chủ trương “hỗ trợ, duy trì và phát triển các làng nghề, tiểu thủ công nghiệp truyền thống... Di dời các cơ sở sản xuất gây ô nhiễm ra khỏi các khu đô thị, khu dân cư tập trung” [44, tr.97]. Một vấn đề đang được nhiều tỉnh, nhiều quốc gia quan tâm đó chính là môi trường. Sự phát triển quá nhanh của công nghiệp Bình Dương cũng như nhiều tỉnh thành khác trong những năm qua khiến cho môi trường trở nên đáng báo động. Do đó, Đảng bộ tỉnh cũng chủ trương, phát triển nhanh và bền vững, phát triển đi đôi với bảo vệ, tôn tạo tài nguyên môi trường, không đánh đổi môi trường lấy phát triển, không phát triển bằng mọi giá.
Đại hội xác định tiếp tục “đẩy mạnh phát triển các khu công nghiệp, cụm công nghiệp theo quy hoạch; lấp kín diện tích các khu công nghiệp hiện có. Chú trọng đầu tư đồng bộ hạ tầng kỹ thuật, đáp ứng tốt nhu cầu phát triển công nghiệp, khu dân cư, khu đô thị theo hướng hiện đại, tiên tiến” [44, tr.97].
Đại hội chủ trương tập trung đầu tư hạ tầng theo hướng hiện đại, đặc biệt đầu tư xây dựng hạ tầng khu Liên hợp Công nghiệp - Dịch vụ - Đô thị Bình Dương được coi là điểm nhấn cho công nghiệp và thành phố Bình Dương trong tương lai,
đồng thời, “tạo điều kiện cho các chủ đầu tư trong khu Liên hợp mời gọi đầu tư, phấn đấu đến cuối nhiệm kỳ trên 50% diện tích đất đưa vào sử dụng” [44, tr.97].
Nhằm thực hiện thành công định hướng phát triển công nghiệp, Đại hội chủ trương phát triển các lĩnh vực phụ trợ, tạo tiền đề và động lực cho việc phát triển công nghiệp như; dịch vụ, giao thông, hạ tầng kỹ thuật, điện nước, kêu gọi đầu tư… Trong thời gian tới, tỉnh tập trung “tạo bước đột phá trong phát triển dịch vụ theo hướng hiện đại, văn minh, hội nhập quốc tế và vươn lên trở thành ngành kinh tế quan trọng của tỉnh” [44, tr.97]. Phấn đấu đến năm 2010, dịch vụ đạt 30% GDP, nhằm tạo ra sự cân bằng hợp lý giữa công nghiệp và dịch vụ trong cơ cấu kinh tế của tỉnh.
Thực hiện chủ trương phát triển công nghiệp nhanh và bền vững theo quan điểm của Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ VIII, ngày 27/4/2007, Tỉnh ủy đề ra Chương trình phát triển công nghiệp nhanh và bền vững giai đoạn 2006-2010. Bên cạnh giải pháp cải thiện môi trường đầu tư và sản xuất kinh doanh, duy trì thứ hạng chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh, cần tăng cường các hoạt động xúc tiến thu hút đầu tư cả trong và ngoài nước. Tỉnh chủ trương kêu gọi, thu hút đầu tư các dự án vào các ngành công nghiệp cơ bản như cơ khí, điện tử, hoá dược; những tập đoàn đa quốc gia có tiềm năng về công nghệ, thị trường, vốn để kéo theo các vệ tinh sản xuất linh kiện, phụ tùng, từ đó thúc đẩy phát triển các ngành công nghiệp hỗ trợ.
Chương trình đề ra mục tiêu phát triển công nghiệp trong giai đoạn 2006-2010: Tăng trưởng giá trị sản xuất công nghiệp đạt bình quân 29-30%/năm trong giai đoạn 2006-2010; Duy trì tốc độ tăng trưởng giá trị tăng thêm công nghiệp bình quân 16,8%/năm giai đoạn 2006-2010. Trong quá trình thực hiện phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng cao hơn mức đề ra; tạo bước chuyển biến căn bản trong ngành công nghiệp về cơ cấu và giá trị tăng thêm công nghiệp. Đến năm 2010, tỷ trọng các ngành điện tử, cơ khí và các ngành sử dụng công nghệ cao chiếm 40% (hiện nay 22%) [113, tr.6].
Chương trình xác định quan điểm phát triển công nghiệp nhanh và bền vững là định hướng nhất quán nhưng cần có bước đi và giải pháp thích hợp cho từng thời kỳ. Đến năm 2010, công nghiệp phát triển theo hướng vừa tăng trưởng về lượng, vừa tăng trưởng về chất, đảm bảo hiệu quả, ổn định và bảo vệ môi trường.
Thực hiện Quy hoạch tổng thể phát triển KT-XH tỉnh Bình Dương đến năm 2020 của Thủ tướng Chính phủ và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ VIII. Đến năm 2010, mặc dù không đạt được mục tiêu đề ra do tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới, nhưng kinh tế công nghiệp Bình Dương tăng trưởng với tốc độ cao, giá trị sản xuất công nghiệp tăng bình quân 20% [45, tr.37]. Trên cơ sở kết quả đạt được, Đại hội Đảng bộ tỉnh Bình Dương lần thứ IX (9/2010), chủ trương tiếp tục “đẩy mạnh công tác tiếp thị đầu tư đối với những ngành công nghiệp kỹ thuật cao nhằm cơ cấu lại nội bộ ngành công nghiệp theo hướng nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế” [45, tr.101-102].
Nhằm giúp các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Bình Dương vượt qua khó khăn do tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới, Đại hội chủ trương: Hỗ trợ các doanh nghiệp của các thành phần kinh tế trong tỉnh đầu tư đổi mới công nghệ, kỹ thuật tiên tiến; chú trọng phát triển công nghiệp phụ trợ, tạo nguồn nguyên liệu cơ bản trong nước nhằm nâng cao giá trị gia tăng và hiệu quả trong sản xuất kinh doanh. Triển khai các CCN đã đươc phê duyệt đồng thời “có chính sách hỗ trợ nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các hợp tác xã trên các lĩnh vực tạo điều kiện chuyển biến mạnh về chất trong ngành công nghiệp” [45, tr.102].
Đại hội đề ra định hướng phát triển công nghiệp Bình Dương trong thời gian tới:
Chú trọng phát triển công nghiệp gắn với phát triển dịch vụ đô thị; phát triển công nghiệp phục vụ sản xuất và chế biến nông sản thực phẩm ở vùng nông thôn; Hạn chế tối đa việc đầu tư bên ngoài các khu công nghiệp, cụm công nghiệp, các ngành công nghiệp gia công sử dụng nhiều lao dộng hoặc có nguy cơ gây ô nhiễm cao. Bảo đảm tất cả các khu công nghiệp, cụm công nghiệp có hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt tiêu chuẩn môi trường Việt Nam; Quy hoạch, sắp xếp lại ngành công nghiệp khai thác khoáng sản theo hướng ưu tiên phục vụ nhu cầu đầu tư xây dựng và sản xuất kinh doanh của tỉnh gắn với nâng cao hiệu quả hiệu lực quản lý đối với hoạt động khai thác tài nguyên, khoáng sản [45, tr.102].
Nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ mà Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ IX đề ra, ngày 12/12/2011, Tỉnh ủy Bình Dương đã thông qua Báo cáo tổng kết Chương trình phát triển công nghiệp nhanh và bền vững giai đoạn 2006-2010. Trên cơ sở đánh giá những thành tựu đạt được, Tỉnh ủy Bình Dương đã đề ra định hướng phát triển công nghiệp của tỉnh Bình Dương trong giai đoạn 2011-2015 là: Hoàn thiện kết cấu hạ tầng kỹ thuật các KCN; thu hút đầu tư các ngành công nghiệp kỹ thuật cao; khuyến khích, hỗ trợ các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế trong tỉnh đầu tư đổi mới công nghệ, kỹ thuật tiên tiến; ưu tiên phát triển các ngành công nghiệp hỗ trợ; chú trọng phát triển công nghiệp gắn với phát triển đô thị; hạn chế tối đa việc đầu tư bên ngoài các KCN, CCN, các ngành công nghiệp gia công sử dụng nhiều lao động hoặc có nguy cơ gây ô nhiễm cao; bảo đảm tất cả các KCN, CCN đều có hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt tiêu chuẩn môi trường Việt Nam; quy hoạch, sắp xếp lại ngành công nghiệp khai thác khoáng sản [122].
Như vậy, chủ trương đẩy mạnh phát triển công nghiệp của Đảng bộ tỉnh Bình Dương giai đoạn 2006-2015, được xây dựng một cách có hệ thống, đồng bộ và nhất quán, vừa phù hợp với thực tiễn địa phương trong thời kỳ mới, vừa bắt kịp với xu thế của thời đại. Những chủ trương của Đảng bộ tỉnh Bình Dương về phát triển công nghiệp là cơ sở để các cấp, các ngành chỉ đạo thực hiện thắng lợi mục tiêu phát triển KT-XH, thực hiện thành công sự nghiệp CNH, HDH.
3.3. ĐẢNG BỘ TỈNH BÌNH DƯƠNG CHỈ ĐẠO ĐẨY MẠNH PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP TỪ NĂM 2006 ĐẾN NĂM 2015
3.3.1. Chỉ đạo đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, cải thiện môi trường đầu tư
Giai đoạn 1997-2005, Bình Dương đã quan tâm lãnh đạo và xác định cải cách hành chính là nhiệm vụ chính trị quan trọng của các cấp ủy Đảng. Tỉnh ủy đã lãnh đạo bằng chủ trương, đường lối làm cơ sở để UBND tỉnh ban hành các văn bản cụ thể hóa các quy định của Trung ương phù hợp với thực tế tại địa phương, tập trung vào những lĩnh vực mà nhân dân, các tổ chức và doanh nghiệp có nhiều quan tâm như: các thủ tục về đất đai, giấy phép xây dựng, cấp giấy phép đầu tư, đăng ký kinh doanh,... Tuy nhiên, công tác cải cách thủ tục hành chính về cấp phép đầu tư, thẩm
định các dự án, đăng ký kinh doanh, các thủ tục về đất đai.... còn rườm rà, gây nhiều phiền hà, bức xúc cho nhân dân, các tổ chức và doanh nghiệp.
Để tiếp tục nâng cao nhận thức về ý nghĩa, mục đích của cải cách hành chính trong công tác quản lý nhà nước, góp phần thúc đẩy KT-XH phát triển phù hợp với quy hoạch phát triển KT-XH và tiến trình hội nhập quốc tế. Ngày 8/8/2006, UBND tỉnh Bình Dương ban hành Quyết định số 190/2006/QĐ-UBND, phê duyệt Kế hoạch tổng thể cải cách hành chính tỉnh Bình Dương giai đoạn II (2006-2010). Từng bước đưa vào thực hiện cơ chế “một cửa” các lĩnh vực mới ngoài 7 lĩnh vực trọng điểm. Nghiên cứu lập đề án thí điểm thực hiện cơ chế “một cửa liên thông” nhiều cấp. Tiếp tục cải tiến thủ tục hành chính về lĩnh vực đầu tư, thuế, hải quan tạo điều kiện nhanh chóng, thuận lợi cho các doanh nghiệp trong nước, nước ngoài đang hoạt động trên địa bàn tỉnh Bình Dương.
Thực hiện Nghị quyết 17-NQ/TW của Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương (khóa X), Về đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ máy nhà nước. Căn cứ tình hình thực tiễn của địa phương, Tỉnh ủy Bình Dương ban hành Chương trình hành động số 49-CTHĐ/TU, Thực hiện Nghị quyết 17- NQ/TW của Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương (khóa
X) về đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ máy Nhà nước. Mục tiêu của việc đẩy mạnh công tác cải cách hành chính tỉnh Bình Dương là nâng cao chất lượng phục vụ nhân dân và hiệu quả hoạt động của bộ máy cơ quan hành chính. Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính đối với những lĩnh vực mà nhân dân, các tổ chức và doanh nghiệp quan tâm, còn nhiều bức xúc; tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân, các tổ chức và doanh nghiệp. Kiên quyết bãi bỏ những quy định do các sở, ngành, huyện, thị xã, cơ quan, đơn vị, cán bộ, công chức tự ý đặt ra khác với quy định của Trung ương và của Tỉnh gây khó khăn cho nhân dân, các tổ chức và doanh nghiệp.
Từ năm 2011, cùng với cả nước, Bình Dương thực hiện Nghị quyết số 30c/NQ-CP ngày 8/11/2011 của Chính phủ về ban hành Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011-2020. Ngày 2/5/2012, UBND tỉnh Bình Dương ban hành Quyết định số 1129/QĐ-UBND, Về việc ban hành Kế hoạch cải
cách thủ tục hành chính tỉnh Bình Dương giai đoạn 2011-2015. Mục tiêu của công tác cải cách hành chính nhằm tạo môi trường bình đẳng, thông thoáng, minh bạch, thuận lợi để thu hút đầu tư trong và ngoài nước; giảm thiểu chi phí và thời gian của nhân dân, doanh nghiệp trong việc tuân thủ các thủ tục hành chính; huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực cho phát triển KT-XH của tỉnh.
Đối với việc thực hiện cơ chế “một cửa”, “một cửa liên thông” cấp tỉnh, ngày 13/9/2013, UBND tỉnh Bình Dương ban hành Quyết định số 2239/QĐ-UBND, Về việc phê duyệt Đề án tổ chức bộ phận tiếp nhận hồ sơ và trả kết quả theo cơ chế một cửa, một cửa liên thông cấp tỉnh tại Trung tâm hành chính tập trung. Theo đó, Tỉnh đã tập trung bộ phận tiếp nhận hồ sơ và trả kết quả của 20/20 sở, ban, ngành và tất các trung tâm hành chính theo Đề án 30 thực hiện tại Khu Hành chính mở, để thực hiện việc tiếp nhận và giải quyết 100% thủ tục liên quan đến người dân và doanh nghiệp.
Đối với một cửa, một cửa hiện đại cấp huyện, ngày 8/5/2014, UBND tỉnh Bình Dương ban hành Quyết định số 1036/QĐ-UBND, Về việc phê duyệt Đề án tổ chức bộ phận tiếp nhận hồ sơ và trả kết quả theo cơ chế một cửa, một cửa liên thông hiện đại tại Ủy ban nhân dân cấp huyện. Theo đó, 9/9 huyện, thị xã, thành phố của tỉnh (kể cả 02 huyện mới thành lập) đều triển khai đồng loạt cơ chế một cửa, một cửa liên thông hiện đại với các nguyên tắc, thiết kế và chức năng tương tự Khu hành chính mở của tỉnh, áp dụng 100% thủ tục hành chính thuộc bộ thủ tục hành chính cấp huyện.
Đồng thời, UBND tỉnh Bình Dương đã chỉ đạo và giao cho Sở Nội vụ phối hợp với Sở Thông tin và Truyền thông và các sở ngành có liên quan triển khai thành lập Ban chỉ đạo thực hiện Kế hoạch áp dụng Hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn Việt Nam ISO 9001: 2000 và ISO 9001: 2008, đưa vào áp dụng ở các cơ quan hành chính Nhà nước giai đoạn 2006-2010 gắn với việc ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý, điều hành công việc. Triển khai xây dựng phần mềm liên thông hiện đại tin học hóa; hệ thống hóa; đơn giản hóa; trực quan hóa; điều khiển hóa; mệnh lệnh hóa, tiến tới xây dựng nền hành chính điện tử, qua đó có các biện pháp hỗ trợ nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp.
Giai đoạn 2006-2015, Bình Dương đã có nhiều có gắng, nỗ lực, mạnh dạn và năng động thực hiện nhiều giải pháp và đã gặt hái được nhiều thành công trong thực