Yêu Cầu Đẩy Mạnh Phát Triển Công Nghiệp Ở Bình Dương Trong Giai Đoạn Mới


tỉnh Bình Dương chiếm 54% và 49% số người trong độ tuổi lao động của tỉnh. Lao động trong lĩnh vực nông nghiệp ngày càng giảm đáng kể, đến năm 2005 còn lại 22,1% [18].

Số lượng cơ sở sản xuất công nghiệp tăng nhanh, từ 2.869 cơ sở năm 1997 tăng lên 5.110 năm 2005. Giá trị sản xuất công nghiệp tăng bình quân 34%/năm; năm 2005, giá trị sản xuất công nghiệp đạt 88.633.968 triệu đồng [18]. Trong đó, khu vực kinh tế Nhà nước tăng 9%, khu vực ngoài quốc doanh tăng 27%, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 46% [44, tr.48].

Những thành tựu to lớn của quá trình phát triển công nghiệp ở tỉnh Bình Dương giai đoạn 1997-2005, chứng minh chủ trương do Đảng bộ tỉnh đề ra và quá trình chỉ đạo thực hiện là hoàn toàn đúng định hướng. Đây là điều kiện, cơ sở khoa học đã được thực tiễn kiểm nghiệm, khẳng định đường lối chủ trương của Đảng đã, đang và sẽ đi vào cuộc sống. Những thành tựu đạt được trong quá trình chỉ đạo thực hiện giai đoạn này làm cơ sở để Đảng bộ tỉnh Bình Dương tiếp tục hoàn thiện chủ trương, chính sách thúc đẩy công nghiệp phát triển mạnh hơn trong giai đoạn tiếp theo.


Chương 3

ĐẢNG BỘ TỈNH BÌNH DƯƠNG LÃNH ĐẠO ĐẨY MẠNH PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP TỪ NĂM 2006 ĐẾN NĂM 2015


3.1. YÊU CẦU ĐẨY MẠNH PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP Ở BÌNH DƯƠNG TRONG GIAI ĐOẠN MỚI

3.1.1. Tác động của tình hình thế giới và trong nước đối với phát triển công nghiệp ở Bình Dương

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 185 trang tài liệu này.

Những năm đầu thế kỷ XXI, bối cảnh thế giới đã có những biến đổi to lớn và sâu sắc, ảnh hưởng mạnh mẽ đến mọi mặt đời sống xã hội của các quốc gia. Toàn cầu hóa và cách mạng khoa học - công nghệ, nhất là công nghệ thông tin, tiếp tục phát triển mạnh mẽ làm biến đổi sâu sắc mọi lĩnh vực trong đời sống xã hội. Kinh tế thế giới vừa có bước phát triển, vừa đứng trước nhiều khó khăn, thách thức; tương quan sức mạnh kinh tế giữa các khu vực và các quốc gia có nhiều thay đổi. Sự tác động của khoa học, công nghệ diễn ra với cường độ lớn hơn, trình độ cao hơn đã làm thay đổi mạnh mẽ, sâu sắc hơn cơ cấu các ngành sản xuất và dịch vụ. Công nghệ thông tin, công nghệ sinh học tiếp tục phát triển mạnh mẽ, đi vào chiều sâu, gắn với nhu cầu phát triển kinh tế, tác động rộng lớn đến cơ cấu và sự phát triển của kinh tế thế giới, mở ra triển vọng mới cho mỗi nền kinh tế tham gia phân công lao động toàn cầu.

Toàn cầu hóa và cuộc cách mạng khoa học - công nghệ diễn ra mạnh mẽ, thúc đẩy quá trình hình thành xã hội thông tin và kinh tế tri thức, tác động sâu sắc đến sự phát triển của nhiều nước. Tự do thương mại toàn cầu đang được thúc đẩy, nhưng đi liền với nó là các vụ kiện bán phá giá, áp dụng các biện pháp “trừng phạt” bằng thuế quan vẫn liên tục diễn ra trong quan hệ kinh tế thế giới. Sự tranh chấp, giành giật nguồn tài nguyên, năng lượng, thị trường giữa các nước ngày càng gay gắt.

Đảng bộ tỉnh Bình Dương lãnh đạo phát triển công nghiệp từ năm 1997 đến năm 2015 - 10

Năm 2007, xảy ra cuộc khủng hoảng tài chính ở Mỹ, sau đó, nhanh chóng lan rộng ra toàn cầu làm cho nền kinh tế thế giới bị suy giảm nghiêm trọng. Do sự hội nhập ngày càng sâu và rộng của nền kinh tế Việt Nam vào thế giới nên Việt Nam chịu những tác động sâu sắc của quá trình toàn cầu hóa. Ảnh hưởng lớn nhất đối với Việt Nam trước hết là về xuất khẩu sang các thị trường như Mỹ và châu Âu (chiếm khoảng 40%).


Khu vực châu Á - Thái Bình Dương và Đông Nam Á phát triển năng động nhưng còn tiềm ẩn nhiều nhân tố bất ổn; tranh chấp lãnh thổ, biển, đảo ngày càng gay gắt, xuất hiện các hình thức tập hợp lực lượng mới cùng với trạng thái đan xen lợi ích rất phức tạp. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng, tình hình thế giới và khu vực đã tác động sâu sắc đến quá trình phát triển KT-XH của Việt Nam, từ đó ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình phát triển KT-XH ở Bình Dương.

Giai đoạn 2006-2015, tình hình trong nước cũng có những diễn biến nhanh chóng, tác động đến quá trình phát triển nền kinh tế nói chung, công nghiệp nói riêng. Việt Nam đã là thành viên và tích cực đóng góp vào hoạt động của các tổ chức quốc tế, khu vực, như Liên hợp quốc, ASEAN, APEC, ASEM, tham gia các cam kết xây dựng thị trường tự do khu vực ASEAN (AFTA). Sau hơn 11 năm kiên trì và nỗ lực đàm phán, Việt Nam đã trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Ngày 07/11/2006, Việt Nam chính thức gia nhập WTO, đây là sự kiện có ý nghĩa rất quan trọng đối với Việt Nam trong tiến trình hội nhập. Việt Nam sẽ có cơ hội tiếp cận với thị trường hàng hoá, dịch vụ ở tất cả các nước thành viên, có điều kiện mở rộng thị trường xuất khẩu và kinh doanh dịch vụ ra ngoài biên giới quốc gia. Thậm chí chất lượng của hàng sản xuất nội địa có thể nâng lên do

chính sự cạnh tranh từ hàng nhập khẩu.

Để nắm bắt cơ hội tiếp cận thị trường quốc tế, Việt Nam đã tập trung đầu tư phát triển các ngành có lợi thế cạnh tranh để hướng vào xuất khẩu như nâng cao chất lượng và giá trị chế biến của các mặt hàng nông, lâm, thuỷ sản; đầu tư công nghệ và quản lý để nâng cao hàm lượng giá trị gia tăng các mặt hàng xuất khẩu truyền thống như dệt may, da giày; khuyến khích các ngành hàng có hàm lượng công nghệ và chất xám cao, có tiềm năng phát triển như điện tử, tin học. Đồng thời, tăng cường công tác xúc tiến thương mại, tìm hiểu thị trường, hỗ trợ doanh nghiệp thâm nhập thị trường quốc tế.

Thách thức chủ yếu là phải mở cửa thị trường, chấp nhận sự cạnh tranh không cân sức trên thị trường nội địa với các đối thủ nước ngoài có tiềm lực kinh tế và khoa học công nghệ cao hơn. Nền kinh tế tuy đạt được tốc độ phát triển cao nhưng chất lượng phát triển chưa cao, công nghệ sản xuất chưa tiên tiến, chi phí cao, năng suất lao động thấp, chi phí lưu thông và chi phí ngoài sản xuất cao... dẫn đến sức


cạnh tranh thấp. Cùng với đó, chất lượng các ngành dịch vụ thấp, trong đó có dịch vụ công, cũng có tác động cản trở không nhỏ tới chất lượng, phát triển của sức sản xuất. Vì vậy, khi đặt những thực tế này vào bối cảnh mới của giai đoạn 2006-2015 là hội nhập sâu, cạnh tranh toàn diện, sự xuất hiện của mặt bằng giá mới trên thị trường thế giới..., những thách thức trên rất có thể sẽ trở thành lực cản đối với chất lượng phát triển nếu không có những giải pháp hiệu quả và mạnh mẽ.

Những thời cơ và thách thức trên vừa xuất phát từ chính nội tại nền kinh tế địa phương, vừa có sự tác động không nhỏ của những biến động từ tình hình thế giới và trong nước, nhất là những biến động về kinh tế. Do đó, đòi hỏi phải có sự nỗ lực, quyết tâm cao của Đảng bộ và nhân trong tỉnh. Đây cũng sẽ là cơ hội và thách thức trong quá trình phát triển công nghiệp của Bình Dương đến năm 2020.

3.1.2. Yêu cầu đặt ra đối với phát triển công nghiệp của tỉnh Bình Dương trong giai đoạn mới

Nhờ phát huy lợi thế về vị trí địa lý, đất đai và chính sách thông thoáng trong thu hút đầu tư từ bên ngoài, công nghiệp của Bình Dương đã phát triển với tốc độ rất cao, tốc độ tăng trưởng bình quân đạt 34%/ năm. Tuy nhiên, do công nghiệp “phát triển nóng” nên đã bộc lộ một số hạn chế:

Thứ nhất, xét về tổng thể, công nghiệp ở Bình Dương mới dừng lại ở các ngành công nghiệp sơ chế, gia công với trình độ công nghệ thấp và trung bình, phụ thuộc nhiều vào nguyên liệu, bán thành phẩm nhập từ nước ngoài. Còn nhiều chủng loại sản phẩm trùng lặp với sản phẩm công nghiệp của những tỉnh xung quanh, chưa có sắc thái riêng, hiệu quả kinh tế thấp, sức cạnh tranh không cao, mang tính chất của một nền công nghiệp tạp, chưa có công nghiệp công nghệ cao. Số lượng cơ sở sản sản xuất công nghiệp tuy nhiều, nhưng đa số là vừa và nhỏ. Công tác xúc tiến kêu gọi đầu tư chưa tương xứng với tiềm năng, chưa thu hút được các doanh nghiệp đầu tư với quy mô và nguồn vốn lớn.

Thứ hai, mặc dù phát triển nhanh các KCN, nhưng hạ tầng kỹ thuật phục vụ công nghiệp và hạ tầng xã hội chưa tương xứng. Đường sá, xử lý chất thải, trường học, nhà ở, bệnh viện… là những vấn đề bức xúc gây khó khăn cho phát triển chung. Chưa hình thành được các KCN chuyên ngành nên gây khó khăn cho công tác quản lý và xử lý ô nhiễm môi trường.


Thứ ba, lực lượng lao động, nhất là lao động có tay nghề chưa đáp ứng yêu cầu phát triển, thiếu đội ngũ cán bộ quản lý được đào tạo bài bản, nhạy bén với nền kinh tế thị trường. Đội ngũ công nhân phần lớn là lao động ngoại tỉnh và lao động phổ thông, không được đào tạo chuyên nghiệp.

Trên cơ sở các điều kiện cơ sở hạ tầng vật chất và môi trường thu hút đầu tư, Bình Dương có nhiều điều kiện để phát triển công nghiệp với tốc độ cao trong giai đoạn 2006-2015. Sau giai đoạn này, do hệ thống cơ sở hạ tầng phục vụ phát triển công nghiệp ở Thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bà Rịa -Vũng Tàu, Long An đã được xây dựng đồng bộ và hoàn thiện, sức hút đầu tư sẽ bị lệch về các địa phương trên. Khi đó, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Bình Dương sẽ giảm đi.

Xuất phát từ tác động của tình hình thế giới và trong nước, đặc biệt là sự phát triển chng của công nghiệp Việt Nam cũng như thực trạng phát triển công nghiệp ở Bình Dương đã đặt ra yêu cầu:

Thứ nhất, do tác động của quá trình toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế thế giới, đòi hỏi phải ưu tiên phát triển công nghiệp theo hướng tăng sản phẩm công nghiệp có hàm lượng công nghệ và giá trị gia tăng cao, sử dụng ít lao động và giảm thiểu ảnh hưởng tới môi trường, phù hợp với quy hoạch phát triển dịch vụ, đô thị. Cơ cấu lại các ngành công nghiệp chế biến xuất khẩu hướng vào thị trường các nước phát triển và khu vực; phát triển các ngành công nghiệp mũi nhọn như điện, điện tử, viễn thông, cơ khí, hóa chất…; công nghiệp chế biến hàng xuất khẩu và sản xuất hàng phục vụ thị trường trong nước, tham gia sâu rộng chuỗi giá trị toàn cầu.

Thứ hai, cơ cấu nội bộ ngành công nghiệp phải đảm bảo được vai trò và thế mạnh đóng góp trong lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo; phát triển nền tảng của công nghiệp hỗ trợ, cung ứng những sản phẩm công nghiệp hỗ trợ. Đặc biệt khai thác mạnh thông tin nhu cầu nguyên liệu đầu vào trong khu vực FDI để khơi dậy những ý tưởng phát triển sản phẩm công nghiệp hỗ trợ ngay tại địa phương.

Thứ ba, tiếp tục chỉ đạo nâng cấp, mở rộng các công trình hạ tầng kỹ thuật cơ bản để phục vụ phát triển công nghiệp, dịch vụ gắn với phát triển đô thị. Tăng cường đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng KCN, CCN. Hỗ trợ doanh nghiệp xúc tiến thương mại, quảng bá sản phẩm, mở rộng thị trường. Trong đó ưu tiên các sản phẩm chủ lực, ưu tiên và mũi nhọn của tỉnh.


Thứ tư, phát triển công nghiệp của Bình Dương phải phù hợp với quy hoạch phát triển ngành công nghiệp cả nước, của khu vực và quy hoạch tổng thể phát triển KT-XH của tỉnh; kiên trì thực hiện các giải pháp đưa công nghiệp trở thành khâu đột phá để thúc đẩy phát triển KT-XH của tỉnh; phát triển công nghiệp với tốc độ nhanh, bền vững gắn với bảo vệ môi trường, bảo đảm quốc phòng, an ninh và giải quyết tốt các vấn đề về xã hội.

3.2. CHỦ TRƯƠNG VỀ ĐẨY MẠNH PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP CỦA ĐẢNG BỘ TỈNH BÌNH DƯƠNG TỪ NĂM 2006 ĐẾN NĂM 2015

3.2.1. Chủ trương của Đảng về đẩy mạnh phát triển công nghiệp

Qua 20 năm tiến hành sự nghiệp đổi mới và 10 năm thực hiện đường lối CNH, HĐH, KT-XH của đất nước đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Nền kinh tế đất nước vượt qua được thời kỳ suy giảm, đạt tốc độ tăng trưởng khá và tương đối toàn diện. Cơ cấu ngành chuyển dịch theo hướng tích cực, tỷ trọng ngành công nghiệp trong GDP tăng từ 36,7% năm 2000 lên 41% năm 2005. Tỷ trọng nông nghiệp giảm từ 24,5% năm 2000 xuống còn 20,9% năm 2005.

Phát huy những kết quả đạt được trong giai đoạn 2001-2005, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng (4/2006) đã đề ra mục tiêu tổng quát cho 5 năm 2006

- 2010 là: “Đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế,... Tạo được nền tảng để đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và phát triển kinh tế tri thức, đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020” [33, tr.185-186]. Để đạt được mục tiêu trên, công nghiệp là ngành phải đi đầu trong việc đổi mới, nâng cao trình độ kỹ thuật - công nghệ cũng như hàm lượng tri thức, để tăng thêm giá trị sản phẩm, nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm, phấn đấu “đạt tốc độ giá trị tăng thêm trong công nghiệp và xây dựng từ 10 - 10,2%/năm” [33, tr.196].

Đại hội xác định phương hướng phát triển công nghiệp là: Phát triển đồng bộ công nghiệp chế biến, chế tác, công nghiệp công nghệ cao, công nghiệp sản xuất tư liệu sản xuất quan trọng, công nghiệp quốc phòng, góp phần xây dựng nền tảng cho một nước công nghiệp và nâng cao khả năng tự chủ của nền kinh tế. Xây dựng và thực hiện tốt chương trình phát triển công nghiệp phục vụ CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn.

Tập trung nguồn lực phát triển mạnh và nâng cao chất lượng các ngành công nghiệp có lợi thế cạnh tranh, tạo ra sản phẩm xuất khẩu và thu hút nhiều lao động,


như: chế biến nông, lâm, thuỷ sản; may mặc, giày da, đồ gỗ gia dụng; cơ khí đóng tàu, công nghiệp chế tạo thiết bị đồng bộ, thiết bị điện, thiết bị xây dựng, máy nông nghiệp, phương tiện giao thông, sản xuất và lắp ráp cơ - điện tử; công nghiệp bổ trợ, công nghiệp công nghệ thông tin, sản xuất phần mềm. Nâng tỷ trọng sản phẩm công nghiệp xuất khẩu đã qua chế biến. Chú trọng phát triển công nghiệp năng lượng đi đôi với áp dụng công nghệ tiết kiệm năng lượng; công nghiệp vật liệu và công nghệ tiết kiệm nguyên vật liệu; công nghiệp dược và các chế phẩm sinh học; công nghiệp bảo vệ môi trường.

Hoàn chỉnh quy hoạch phát triển các khu, cụm, điểm công nghiệp trên cả nước; hình thành các vùng công nghiệp trọng điểm; gắn việc phát triển sản xuất với bảo đảm nhà ở và các điều kiện sinh hoạt cho người lao động.

Tăng cường hợp tác liên kết, đưa ngành công nghiệp nước ta hội nhập với khu vực và quốc tế, trước hết thông qua việc thu hút mạnh đầu tư và công nghiệp nguồn của các công ty đa quốc gia vào phát triển công nghiệp ở Việt Nam.

Ngày 05/02/2007, Ban Chấp hành Trung ương ra Nghị quyết số 08-NQ/TW, Về một số chủ trương chính sách lớn để nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững khi Việt Nam là thành viên của tổ chức thương mại thế giới. Nghị quyết nhấn mạnh yêu cầu phải điều chỉnh cơ cấu và quy mô sản xuất trên cơ sở xác định đúng chiến lược sản phẩm và thị trường; tăng nhanh năng lực tài chính, ứng dụng công nghệ hiện đại trong sản xuất, kinh doanh nhằm tạo ra các sản phẩm có giá trị gia tăng ngày càng cao, vươn lên chiếm lĩnh những khâu quan trọng trong dây chuyền phân công lao động quốc tế. Đồng thời, nâng cao trình độ quản trị kinh doanh; đẩy mạnh xúc tiến thương mại, thiết lập nhanh mạng lưới kinh doanh, tăng cường liên kết, hợp tác giữa các doanh nghiệp với các cơ quan nghiên cứu khoa học, công nghệ; coi trọng xây dựng và quảng bá thương hiệu, văn hoá của doanh nghiệp.

Ngày 5/6/2007, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 81/2007/QĐ- TTg, Phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Bình Dương đến năm 2020, Chính phủ chủ trương tiếp tục thu hút đầu tư phát triển các ngành công nghiệp theo hướng đa dạng hoá sản phẩm, chú trọng công nghiệp có hàm lượng công nghệ cao, sử dụng nguyên liệu trong nước. Xây dựng công nghiệp đạt trình độ tiên tiến và hiện đại, sản phẩm có khả năng cạnh tranh cao trên thị trường trong


nước cũng như nước ngoài. Đến năm 2020, Bình Dương trở thành trung tâm công nghiệp lớn, tầm quốc gia và khu vực. Giá trị sản xuất công nghiệp tăng bình quân 30,6%/năm thời kỳ 2005-2010; 26%/năm thời kỳ 2011-2015 và 24,1%/năm thời kỳ 2016-2020. Tăng tỷ lệ nội địa hóa từ 55% năm 2010 lên 60% năm 2015 và 70% năm 2020, giảm tỷ lệ gia công. Nâng dần hàm lượng công nghệ cao trong sản phẩm công nghiệp. Nâng tỷ lệ công nghiệp sạch từ 20% hiện nay lên 40% năm 2010; 50% năm 2015 và 60% năm 2020 [100].

Phát triển mạnh công nghiệp nhỏ và vừa, các ngành nghề truyền thống giải quyết nhiều việc làm tại chỗ ở khu vực nông thôn và thu hút lao động từ bên ngoài vào địa bàn tỉnh. Củng cố và nâng cao hiệu quả của các KCN tập trung trên địa bàn, lựa chọn các ngành công nghiệp có hàm lượng nội địa hoá cao. Đến năm 2020, dự kiến toàn tỉnh có 31 KCN với tổng diện tích 9.360,5 ha và 23 CCN với tổng diện tích 2.704 ha [100].

Trải qua 25 năm đổi mới, 20 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội đã chứng tỏ đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn và sáng tạo. Kế thừa những thành tựu đạt được, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI (1/2011), tiếp tục đề ra mục tiêu tổng quát trong 5 năm 2011-2015 là “Tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng; đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới... tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại” [36, tr.188].

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011), chủ trương thực hiện CNH, HĐH đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức và bảo vệ tài nguyên mơi trường; xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý, hiện đại, có hiệu quả và bền vững, gắn kết chặt chẽ giữa phát triển công nghiệp, nông nghiệp với dịch vụ. “Coi trọng phát triển các ngành công nghiệp nặng, công nghiệp chế tạo có tính nền tảng và các ngành công nghiệp có lợi thế; phát triển nông, lâm, ngư nghiệp ngày càng đạt trình độ công nghệ cao, chất lượng gắn với công nghiệp chế biến và xây dựng nông thôn mới” [36, tr.75].

Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020, chủ trương phát triển kinh tế: Phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước (GDP) bình quân 7 - 8%/năm. GDP năm 2020 theo giá so sánh khoảng 2,2 lần so với năm 2010; GDP

Xem tất cả 185 trang.

Ngày đăng: 03/03/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí