Chỉ Đạo Công Tác Bảo Vệ Môi Trường Trong Phát Triển Công Nghiệp


54 doanh nghiệp tham gia, số lao động là 1.940 người, chiếm 0,7% tổng lao động toàn tỉnh. Giai đoạn 2001-2005, nhờ thu hút đầu tư mạnh các dự án công nghiệp cũng như triển khai các công trình giao thông lớn nên nhu cầu về các sản phẩm vật liệu xây dựng như cát đá tăng cao. Giá trị sản xuất công nghiệp đạt 575.166 triệu đồng, tốc độ tăng trưởng đạt 18,8% [155].

Đối với ngành sản xuất vật liệu xây dựng và gốm sứ, là ngành nghề truyền thống, sử dụng nguyên liệu tại chỗ phong phú và chất lượng tốt. Đến năm 2005, ngành có 830 cơ sở tham gia sản xuất, số lao động là 34.484 người, hơn 70% trong số này là số hộ sản xuất kinh doanh cá thể. Một số doanh nghiệp có quy mô lớn đang hoạt động trên địa bàn như: các doanh nghiệp thuộc Tổng Công ty sành sứ thủy tinh ShiJa, Mỹ Phú, Mỹ An, Bạch Mã,... Giá trị sản xuất công nghiệp của ngành này đạt 438.203 triệu đồng. Ngành sản xuất gốm sứ, vật liệu xây dựng có tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất công nghiệp bình quân đạt 30,1% giai đoạn 1997-2005; trong đó giai đoạn 1997-2000, đạt 39,6% và giai đoạn 2001-2005, đạt 20,6% [155].

Công nghiệp chế biến nông sản, thực phẩm, đồ uống và chế biến gỗ

Với hướng phát triển đúng đắn, ngành chế biến nông, lâm sản, thực phẩm có sự phát triển tốt, một số nhóm sản phẩm có mức tăng trưởng khá nhanh như thức ăn chăn nuôi, đồ gỗ mỹ nghệ, đồ gỗ dân dụng; sản phẩm giấy các loại.

Chế biến nông sản, thực phẩm, đồ uống là nhóm ngành chiếm tỷ trọng lớn nhất trong cơ cấu nội bộ ngành công nghiệp với sự đa dạng về sản phẩm: sữa, hạt điều nhân, mỳ ăn liền, đồ uống, thuốc lá v.v... Năm 2005, có 741 cơ sở tham gia, tăng 59 cơ sở so với năm 1996 nhưng giảm 47 cơ sở so với năm 2000, chủ yếu là giảm các cơ sở kinh tế hộ gia đình do không cạnh tranh được với nhiều doanh nghiệp lớn có sản phẩm chất lượng cao [155].

Chế biến gỗ là ngành có thế mạnh của Bình Dương nhờ lao động có kỹ thuật và giá nhân công rẻ. Sản phẩm của ngành chế biến gỗ chủ yếu xuất khẩu (80%) sang thị trường lớn và tương đối ổn định như: Nhật Bản, Mỹ, EU và các nước trong khu vực. Giai đoạn 2001-2005, ngành chế biến gỗ có sự tăng trưởng


đột biến do sự chuyển dịch cơ sở sản xuất từ một số quốc gia trong khu vực như Hàn Quốc, Đài Loan. Năm 2005, có 1.053 cơ sở, số lao động tham gia là 84.012 người, chiếm 22,7% lao động công nghiệp. Bình quân tốc độ tăng trưởng lao động đạt 25,9% trong giai đoạn 1997-2005. Trong đó giai đoạn 2001-2005, tốc độ tăng đạt 33%, đặc biệt các năm 2002, 2003, 2004, 2005, thu hút trên 15.000 lao

động/năm [155].

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 185 trang tài liệu này.

Công nghiệp dệt may - da giày

Dệt may - da giày là ngành xuất khẩu mũi nhọn của Bình Dương. Để phát triển ngành công nghiệp này, tỉnh Bình Dương chỉ đạo đẩy mạnh phát triển các cơ sở sản xuất dệt may, da giày, mở rộng quy mô, cải tiến công nghệ, đầu tư các dây chuyền may mặc hiện đại để sản xuất các sản phẩm đủ tiêu chuẩn xuất khẩu. Nâng cao năng lực sản xuất các cơ sở hiện có, cải tiến mẫu mã, đa dạng hóa sản phẩm quần áo, giày dép, túi xách, cặp, ví… phục vụ tiêu dùng trong và ngoài tỉnh.

Đảng bộ tỉnh Bình Dương lãnh đạo phát triển công nghiệp từ năm 1997 đến năm 2015 - 9

Năm 2005, ngành dệt may - da giày có 990 cơ sở, tăng 551 cơ sở so với năm 1996. Số lao động làm việc trong ngành này tăng nhanh theo từng năm, đặc biệt các năm từ 2001-2005 tăng từ 10.000 đến 35.000 lao động/năm. Đây là giai đoạn có nhiều dự án đầu tư nước ngoài có quy mô lớn đi vào hoạt động để xuất khẩu sang thị trường Mỹ. Năm 2005, số lao động tham gia là 131.692 người, chiếm đến 42,1% lao động công nghiệp toàn tỉnh. Bình quân giai đoạn 1997-2005, lượng lao động tăng 25,8%, trong đó giai đoạn 1997-2000 là 22,7% và giai đoạn 2001-2005 là 28,9% [155].

Sự tăng trưởng của ngành dệt may - da giày có sự đóng góp rất lớn của khu vực đầu tư nước ngoài. Năm 2005, khoảng 81% giá trị sản xuất công nghiệp được sản xuất từ khu vực này và tỷ trọng được tăng nhanh từ 36,3% năm 1996. Khu vực kinh tế trong nước từ tỷ trọng năm 63,7% đã giảm mạnh xuống chỉ còn gần 19% năm 2005, đặc biệt khu vực quốc doanh chỉ chiếm 3% (1 doanh nghiệp hoạt động ở ngành may - Công ty SX-XNK 3/2).

Công nghiệp hóa chất, cao su và nhựa

Hóa chất, cao su và nhựa là nhóm ngành có tỷ trọng cao thứ 3 trong cơ cấu công nghiệp của tỉnh. Đây là nhóm ngành có sản phẩm đa dạng, phong phú như


tẩy rửa, xà phòng, sơn hóa học, nhựa, dược, hóa chất tiêu dùng… phục vụ chủ yếu cho thị trường nội địa và cung cấp cho khách hàng doanh nghiệp. Ngành hóa chất, cao su và nhựa có tốc độ tăng trưởng bình quân thấp hơn tăng bình quân chung của toàn ngành. Bình quân giai đoạn 1997-2005, mức tăng đạt 26,4%, trong đó giai đoạn 1997-2000, đạt 22,1%, giai đoạn 2001-2005, đạt 32,4%. Nếu xem xét theo thành phần kinh tế thì khu vực đầu tư nước ngoài đạt cao nhất, bình quân 38,2%/năm, khu vực ngoài quốc doanh dạt 16,8% còn khu vực quốc doanh chỉ đạt 8,3% trong giai đoạn 1997-2005. Nhờ có mức tăng trưởng cao hơn, nên tỷ trọng của khu vục đầu tư nước ngoài đã tăng nhanh chóng từ 34,8% năm 1996 lên 54,2% năm 2000 và đạt 71,5% năm 2004. Ngược lại, tỷ trọng của khu vực trong nước giảm từ 65,2% xuống còn 28,5%. Tổng vốn đầu tư tính đến ngày 31/12/2003 là 5.473,5 tỷ đồng, chiếm 13% tổng vốn toàn ngành. Mức trang bị vốn bình quân một lao động là 407,5 triệu đồng, cao hơn 2,6 lần mức bình quân toàn ngành. Năng suất lao động tính theo giá trị sản xuất đạt 326 triệu đồng [155].

Công nghiệp cơ khí, chế tạo máy và sản xuất kim loại

Để nhóm ngành công nghiệp này phát triển có hiệu quả hơn, tỉnh đã chỉ đạo đẩy mạnh phát triển theo hướng mở rộng, nâng cấp các cơ sở sản xuất hiện có. Đổi mới công nghệ ở các cơ sở sản xuất sắt, thép, từng bước thay thế công nghệ lạc hậu, tốn năng lượng, phương pháp sản xuất thủ công bằng công nghệ, phương pháp hiện đại, giảm thiểu ô nhiễm môi trường. Tạo điều kiện về vốn, mặt bằng sản xuất, khuyến khích các cơ sở sản xuất liên kết, hợp tác sản xuất để tăng sức cạnh tranh và mở rộng thị trường. Chú trọng sản xuất các sản phẩm cơ khí phục vụ cho sản xuất nông nghiệp, chế biến nông sản, thực phẩm, các loại sắt, thép phục vụ cho xây dựng, giao thông vận tải...

Cơ khí là ngành sản xuất máy móc thiết bị, xe có động cơ và phương tiện vận tải. Một số doanh nghiệp sản xuất lắp ráp có quy mô lớn ở Bình Dương như Công ty liên doanh sản xuất ô tô Ngôi Sao chuyên lắp ráp ô tô với số vốn đầu tư 53 triệu USD với công suất 5.000 xe/năm, công ty TNHH Quốc tế Trường Phong vốn đầu tư 15 triệu USD, Công ty sản xuất cơ khí và cầu trục MNC…


Do không có thế mạnh về nguyên, nhiên liệu nên định hướng ngành công nghiệp sản xuất kim loại không phát triển theo bề rộng. Chủ yếu trong giai này ngành sản xuất kim loại sẽ phát triển theo hướng phát huy tối đa công suất, đa dạng hoá mặt hàng thép cán, kéo theo hướng gia tăng giá trị và giá trị tăng thêm bằng cách phát triển các mặt hàng thép chất lượng cao, thép dây, thép băng, thép đúc phục vụ cho gia công cơ khí. Bình quân giai đoạn 1997-2005, ngành duy trì mức tăng trưởng khoảng 80%, trong đó khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng khoảng 120%. Trong giai đoạn này, tỉnh đã có các dự án đầu tư quy mô lớn như công ty Sunstell, Quốc Duy, Pomina, Hoa Sen…

Công nghiệp điện - điện tử

Xác định điện - điện tử sẽ là ngành công nghiệp mũi nhọn đem lại giá trị gia tăng cao cho địa phương, Quy hoạch tổng thể kinh tế - xã hội tỉnh Bình Dương thời kỳ đến năm 2010 chủ trương: Phát triển nhanh các cơ sở sản xuất linh kiện, thiết bị điện, điện tử để cung cấp các sản phẩm phụ trợ cho các doanh nghiệp trong và ngoài nước. Đầu tư đổi mới công nghệ dây chuyền sản xuất ở các cơ sở hiện có để tham gia vào các công đoạn lắp ráp hoàn thiện sản phẩm của các doanh nghiệp lớn. Tích cực xúc tiến, kêu gọi các doanh nghiệp điện, điện tử lớn có thương hiệu trong và ngoài nước đầu tư vào các KCN để tạo bước đột phá cho ngành công nghiệp này. Bình quân giai đoạn 1997-2005, mức tăng đạt 36,05%, trong đó khu vực ngoài quốc doanh có mức tăng rất cao đạt 82,6% còn khu vực đầu tư nước ngoài tăng tương đương mức bình quân của ngành 34% [156]. Tuy hiện đã có một số dự án công nghiệp điện tử có công nghệ tiên tiến trong các KCN, sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao nhưng quy mô còn quá nhỏ bé, phần lớn sản phẩm điện tử dân dụng có công nghệ trung bình, sử dụng nhiều lao động và sản xuất chủ yếu ở công đoạn lắp ráp.

Tiểu thủ công nghiệp

Cùng với phát triển các ngành công nghiệp tập trung, tỉnh quan tâm đầu tư phát triển tiểu thủ công nghiệp, đặc biệt là các ngành nghề truyền thống nhằm tăng thu nhập cho nhân dân, giải quyết việc làm, chuyển dịch cơ cấu lao động và


cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn. Tiểu thủ công nghiệp đã có một bước chuyển biến về chất lượng, đặc biệt là các ngành tiểu thủ công nghiệp truyền thông gốm sứ và sơn mài, những ngành nghề đã làm cho Thủ Dầu Một nổi danh trong cả nước.

Năm 2005, tỉnh Bình Dương có 3 làng gốm sứ: Làng gốm sứ Lái Thiêu (Thuận An): với 3 trường phái gốm Quảng, gốm Triều Châu, gốm Phúc Kiến; Làng gốm sứ Tân Phước Khánh (Tân Uyên) là nơi có trữ lượng lớn về đất sét chất lượng tốt, có nhiều nghệ nhân tài hoa, đã sáng tạo ra nhiều mẫu mã kết hợp truyền thống và hiện đại; Làng gốm sứ Chánh Nghĩa (Thủ Dầu Một) là một trong những chiếc nôi của ngành gốm sứ Bình Dương, quy mô sản xuất khá lớn, đã tham gia cạnh tranh có hiệu quả trên thị trường quốc tế. Bên cạnh gốm sứ, ngành sơn mài đã hình thành và phát triển ở Bình Dương có lịch sử phát triển trên 200 năm. Chiếc nôi của nghề sơn mài Bình Dương là làng Bến Thế và Tương Bình Hiệp (thị xã Thủ Dầu Một).

Các ngành tiểu thủ công nghiệp truyền thống như: gốm sứ, vật liệu xây dựng, sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ, sơn mài đã có nhiều thay đổi trong công nghệ sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm và tăng sức cạnh tranh trên thị trường. Một số cơ sở sản xuất gây ô nghiễm môi trường trong khu dân cư, khu đô thị đã thực hiện các giải pháp bảo vệ môi trường hoặc thực hiện di dời đến vùng quy hoạch nhằm đảm bảo mục tiêu phát triển bền vững.

2.3.6. Chỉ đạo công tác bảo vệ môi trường trong phát triển công nghiệp

Bảo vệ môi trường trong các hoạt động sản xuất công nghiệp là một yêu cầu tất yếu để phát triển bền vững. Thực tế phát triển công nghiệp tại Bình Dương cho thấy, tình trạng môi trường có nhiều dấu hiệu bị ô nhiễm do nhiều loại chất thải công nghiệp chưa được kiểm soát và quản lý chặt chẽ. Vì vậy, bên cạnh việc kêu gọi thu hút đầu tư, các cấp, các ngành chức năng luôn quan tâm đến vấn đề môi trường trong hoạt động sản xuất công nghiệp.

Ngày 13/12/2001, UBND tỉnh Bình Dương ban hành Quyết định số 2000/2001/QĐ-UB, Về việc phê duyệt chương trình hỗ trợ doanh nghiệp áp dụng


hệ thống quản lý chất lượng và quản lý môi trường. Chủ trương nhằm khuyến khích các doanh nghiệp áp dụng hệ thống quản lý chất lượng, quản lý môi trường tiên tiến, nâng cao năng lực cạnh tranh nhằm đáp ứng với yêu cầu hội nhập kinh tế với các nước và bảo vệ môi trường để phát triển bền vững; xét chọn, hỗ trợ một phần kinh phí cho một số doanh nghiệp thuộc những ngành sản xuất trọng yếu của tỉnh áp dụng hệ thống ISO 9000, HACCP, TQM, GMP hoặc ISO 14000...

Bình Dương là tỉnh có nhiều làng nghề thủ công nghiệp truyền thống, đặc biệt là các cơ sở sản xuất gạch ngói và gốm sứ. Nếu không di dời các cơ sở này ra khỏi khu đô thị sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe cộng đồng dân cư. Vì vậy, ngày 25/7/2001, UBND tỉnh Bình Dương ban hành Quyết định số 115/2001/QĐ-CT, Về việc phê duyệt kế hoạch di dời các cơ sở sản xuất gốm sứ, gạch ngói ra khỏi khu đông dân cư. Chủ trương di dời các cơ sở sản xuất gốm sứ và gạch ngói ra khỏi khu dân cư tập trung, khu đô thị, khu du lịch là do yêu cầu phát triển bền vững của bản thân nó, bởi vì quá trình di dời sẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp đổi mới công nghiệp, chuyển đổi mặt hàng sang sản xuất hàng xuất khẩu; di dời các cơ sở gốm sứ, gạch ngói lên các huyện phía Bắc sẽ góp phần thực hiện mục tiêu CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn và còn giảm thiểu được ô nhiễm môi trường.

Căn cứ vào quy hoạch phát triển KT-XH và hiện trạng môi trường, dự báo các thách thức và xu thế diễn biến về môi trường trên địa bàn tỉnh đến năm 2010, ngày 18/12/2002, UBND tỉnh Bình Dương ban hành Quyết định số 146/2002/QĐ- UB, Về việc phê duyệt chương trình bảo vệ môi trường tỉnh Bình Dương giai đoạn 2001-2010. Mục tiêu của Chương trình là bảo vệ môi trường phải tập trung vào công tác phòng ngừa ô nhiễm ngay từ khâu xây dựng và phê duyệt các quy hoạch, dự án đầu tư; ngăn chặn không để ô nhiễm môi trường gia tăng, giải quyết tình trạng ô nhiễm môi trường trong các khu dân cư, đô thị; cải thiện và nâng cao chất lượng nước của hệ thống sông Đồng Nai, sông Sài Gòn trên địa bàn tỉnh; khai thác hợp lý tài nguyên khoáng sản, sử dụng và bảo vệ nguồn nước ngầm, đảm bảo cân bằng sinh thái, bảo tồn đa dạng sinh học hướng đến xây dựng Bình Dương thành


nơi có môi trường sống tốt, có sự hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế, gắn với tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường.

Quyết định số 218/2003/QĐ-UB ngày 25/8/2003 của UBND tỉnh Bình Dương, Về việc ban hành quy định chi tiết áp dụng các Tiêu chuẩn Việt Nam về chất lượng nước thải công nghiệp khi thải vào từng thủy vực cụ thể trên địa bàn tỉnh Bình Dương, đã quy định các tiêu chuẩn cụ thể về chất lượng nước thải công nghiệp khi thải vào từng thủy vực cụ thể trên địa bàn tỉnh Bình Dương, nhằm giảm thiểu ô nhiễm môi trường trong quá trình sản xuất công nghiệp.

Trong quá trình xây dựng các KCN, tỉnh Bình Dương luôn chú trọng đến vấn đề xử lý nước thải nhằm bảo vệ môi trường. Đến năm 2005, tất cả các KCN ở Bình Dương đều được đầu tư hoàn chỉnh công trình thoát nước và có nhà máy xử lý nước thải tập trung trước khi xả ra sông, suối. Các KCN đã đi vào hoạt động ổn định có tổng công suất nhà máy xử lý nước thải lên đến 19.700 m3/ngày đêm, trong khi đó tổng lưu lượng nước thải của các KCN đang hoạt động khoảng

16.100 m3/ngày đêm. Cuối năm 2005, KCN Sóng Thần I và Sóng Thần II, tiếp tục

đưa vào hoạt động nhà máy xử lý nước thải thứ hai có công suất 4.000 m3. Như vậy, tổng công suất các nhà máy xử lý nước thải ở các KCN đang hoạt động đạt khoảng 24.000 m3/ngày đêm.

Dưới sự chỉ đạo sát sao của UBND tỉnh và các sở ban ngành, công tác bảo vệ môi trường ở Bình Dương có những thành tựu quan trọng. Trong 8 năm phát triển công nghiệp, mặc dù các vụ việc gây ô nhiễm môi trường năm nào cũng có, nhưng chưa có vụ việc vi phạm nghiêm trọng, các vụ việc gây ô nhiễm môi trường đều được xử lý kịp thời, hiệu quả.

Tiểu kết chương 2

Sau khi tái lập năm 1997, tỉnh Bình Dương gặp nhiều khó khăn như: ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính, tiền tệ trong khu vực; kết cấu hạ tầng kỹ thuật còn thấp kém, thiếu đồng bộ; đội ngũ cán bộ và công nhân kỹ thuật chưa ngang tầm với yêu cầu phát triển. Tuy nhiên, với tinh thần năng động, sáng tạo, đoàn kết, Đảng bộ và nhân dân tỉnh Bình Dương đã vươn lên, khắc phục khó


khăn, tận dụng và khai thác những thuận lợi về vị trí địa lý, về tiềm năng lao động, đất đai… của địa phương, tiếp tục kế thừa và phát huy những thành quả mà tỉnh Sông Bé trước đây để lại, từng bước đưa KT-XH phát triển liên tục và toàn diện.

Sớm nhận biết được tiềm năng và vị thế của tỉnh trong Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, trên cơ sở vận dụng đúng đắn đường lối của Đảng, Đảng bộ tỉnh Bình Dương đã lãnh đạo phát triển công nghiệp, đẩy mạnh công tác quy hoạch và xây dựng các KCN, CCN để từng bước hình thành các trung tâm công nghiệp của tỉnh, góp phần nâng cao năng lực sản xuất, đẩy nhanh tốc độ phát triển KT-XH và chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh theo hướng CNH, HĐH.

Quá trình chỉ đạo phát triển công nghiệp, Đảng bộ, UBND và các Sở, ban, ngành của tỉnh Bình Dương đã luôn bám sát thực tiễn, nhạy bén, sáng tạo kịp thời đề ra các nhiệm vụ, giải pháp sát đúng để chỉ đạo toàn diện các cấp, các ngành, trên các lĩnh vực ở địa phương tổ chức thực hiện thắng lợi chủ trương do Đảng bộ đề ra với những bước đi và biện pháp thích hợp.

Công nghiệp tăng trưởng mạnh mẽ, trở thành ngành kinh tế trọng yếu và lớn nhất của tỉnh, thực sự là động lực thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng, trong giai đoạn 1997-2005, kinh tế của tỉnh Bình Dương luôn đạt tốc độ tăng cao hơn mức trung bình chung của cả nước và cao hơn của cả vùng kinh tế trọng điểm phía Nam. Tổng sản phẩm trong tỉnh tăng bình quân hàng năm là 14,7%. Công nghiệp phát triển đã thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng dần tỷ trong công nghiệp và dịch vụ, giảm dần tỷ trọng về nông nghiệp. Năm 1997, cơ cấu kinh tế của tỉnh là công nghiệp (50%) - dịch vụ (27%) - nông nghiệp (23%); đến năm 2005, cơ cấu kinh tế là công nghiệp (63,8%) - dịch vụ (28,2%) - nông nghiệp (8%). So với Đồng Nai, cơ cấu kinh tế của Bình Dương có sự chuyển dịch nhanh hơn (năm 2005, cơ cấu kinh tế Đồng Nai là công nghiệp - dịch vụ - nông nghiệp, với tỷ lệ tương ứng: 57% - 28,1% - 14,9% [73].

Quá trình phát triển công nghiệp ở Bình Dương đã thúc đẩy quá sự chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng tích cực. Năm 1997, lao động công nghiệp chiếm 21,2% tổng số lao động của tỉnh; đến hết năm 2005, số lao động công nghiệp của

Xem tất cả 185 trang.

Ngày đăng: 03/03/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí