nghị hoàn thiện pháp luật về đaị diên
theo ủy quyền trong tố tun
g dân sự là
cần thiết, có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn. Đó là lý do để tác giả chọn đề tài “Đại diện theo ủy quyền trong tố tụng dân sự Việt nam” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Đã có một vài công trình nghiên cứu có liên quan đến việc đại diện của đương sự như: Luận án tiến sĩ “Bảo đảm quyền bảo vệ của đương sự trong tố tụng dân sự” của tác giả Nguyễn Công Bình; Khóa luận tốt nghiệp “Người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự” của tác giả Hồ Nguyên Bình năm 2010 và của tác giả Nguyễn Thị Long năm 2011. Ngoài ra, còn có các bài viết trên một số tạp chí và báo như: “Một số suy nghĩ về đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự” của tác giả Tưởng Duy Lượng đăng trên Tạp chí Khoa học pháp lý số 1/2007; “Đại diện theo ủy quyền – Từ pháp luật nội dung đến tố tụng dân sự” của tác giả Nguyễn Minh Hằng đăng trên Tạp chí nghiên cứu lập pháp, số 5 (52), 5/2005; “Một số vấn đề về người đại diện theo ủy quyền và đại diện do Tòa án chỉ định trong tố tụng dân sự” của tác giả Nguyễn Thị Hạnh trên Tạp chí nghề luật số 06/2010; “Một số vướng mắc trong quá trình thực hiện Bộ luật tố tụng dân sự - Những kiến nghị, giải pháp hoàn thiện” của tác giả Nguyễn Văn Cường trên Tạp chí Tòa án nhân dân số 02/2010, v.v...
Các công trình nghiên cứu trên chủ yếu khai thác dưới góc độ bảo đảm quyền bảo vệ của đương sự hoặc mới chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu một số khía cạnh về người đại diện theo ủy quyền của đương sự, chỉ ra một số vướng mắc nhất định khi thực hiện quy định về đại diện theo uỷ quyền tham gia tố
tụng, chứ chưa nghiên cứu môt cách toàn diện và chuyên sâu về đại diện theo
ủy quyền trong tố tụng dân sự. Do vậy, việc tiếp tục nghiên cứu chuyên sâu các các vấn đề lý luận về đại diện theo ủy quyền trong tố tụng dân sự, thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng các quy định về đại diện theo ủy quyền trong tố tụng dân sự, từ đó đưa ra các kiến nghị hoàn thiện là cần thiết.
3. Mục tiêu nghiên cứu
Có thể bạn quan tâm!
- Đại diện theo ủy quyền trong tố tụng dân sự Việt Nam - 1
- Ý Nghĩa Của Đại Diện Theo Ủy Quyền Trong Tố Tụng Dân Sự
- Sơ Lược Về Sự Phát Triển Các Quy Định Về Đại Diện Theo Ủy Quyền Trong Tố Tụng Dân Sự Ở Việt Nam Sau 1945
- Các Quy Định Về Người Ủy Quyền Và Người Đại Diện Theo Ủy Quyền Trong Tố Tụng Dân Sự
Xem toàn bộ 110 trang tài liệu này.
- Làm rõ một số vấn đề lý luận về đại diện theo ủy quyền trong tố tụng dân sự;
- Phân tích, đánh giá các quy định pháp luật hiện hành về đại diện theo ủy quyền trong tố tụng dân sự;
- Nêu rõ thực trạng áp dụng các quy định về đại diện theo ủy quyền trong tố tụng dân sự;
- Đề xuất phương hướng, giải pháp hoàn thiện về mặt lập pháp cũng như về mặt thi hành pháp luật về đại diện theo ủy quyền trong tố tụng dân sự.
4. Đóng góp khoa học của đề tài
- Làm rõ được những vấn đề lý luận về đại diện theo ủy quyền trong tố tụng dân sự;
- Phân tích có hệ thống các quy định pháp luật hiện hành liên quan đến đại diện theo ủy quyền trong tố tụng dân sự;
- Đánh giá thực tiễn thực hiện các quy định pháp luật về đại diện theo ủy quyền trong tố tụng dân sự và rút ra những vướng mắc, bất cập của pháp luật hiện hành;
- Đề xuất những kiến nghị cụ thể nhằm hoàn thiện và bảo đảm thực hiện các quy định về đại diện theo ủy quyền trong tố tụng dân sự.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn không nghiên cứu về đại diện theo ủy quyền trong hoạt động thi hành án, mà chỉ tập trung nghiên cứu về đại diện theo ủy quyền trong tố tụng dân sự tại Toà án. Đề tài cũng không có tham vọng nghiên cứu các vấn đề pháp lý về đại diện theo ủy quyền trong tố tụng dân sự trong tất cả các quy định về vấn đề này từ trước đến nay, mà chỉ tập trung nghiên cứu trong phạm vi quy định của BLTTDS đang có hiệu lực thi hành, Bộ luật dân sự 2005 và một số văn bản pháp luật khác có liên quan. Tuy nhiên, để có thể triển khai đề
tài một cách sâu sắc, việc nghiên cứu về lược sử các quy định có liên quan đến vấn đề nghiên cứu cũng được tiến hành. Đề tài cũng chỉ nghiên cứu thực
tiễn thưc
hiên
các quy điṇ h về đaị diên
theo ủy quyền trong tố tụng dân sự từ
năm 2005 đến nay. Cụ thể:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về đại diện theo ủy quyền trong tố tụng dân sự;
- Nghiên cứu những quy định pháp luật hiện hành về đại diện theo ủy quyền trong tố tụng dân sự;
- Nghiên cứu thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật hiện hành về đại diện theo ủy quyền trong tố tụng dân sự.
6. Phương pháp nghiên cứu
Với mục tiêu nghiên cứu như trên, các phương pháp nghiên cứu chủ yếu được áp dụng trong đề tài này là:
- Phương pháp phân tích, tổng hợp, khái quát: Để nắm vững cơ sở lý luận của việc ủy quyền trong tố tụng dân sự, đề tài đi sâu phân tích những khái niệm, bản chất của quan hệ ủy quyền, mối liên hệ giữa đại diện theo ủy quyền trong dân sự và đại diện theo ủy quyền trong tố tụng dân sự, khái quát những nguyên tắc chung của việc ủy quyền, quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ ủy quyền.
- Phương pháp kết hợp lý luận với thực tiễn: Bên cạnh chất lượng cuộc sống ngày càng đi lên, các tranh chấp, yêu cầu về dân sự tại Tòa án ngày càng phức tạp, việc ủy quyền tham gia tố tụng để giải quyết các yêu cầu của đương sự ngày càng nhiều, phong phú về hình thức. BLTTDS, Bộ luật dân sự 2005, các văn bản hướng dẫn liên quan đến việc ủy quyền – nhất là các Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán TANDTC – ra đời nhằm đáp ứng các nhu cầu cần thiết đó. Lấy thực tiễn đa dạng, phong phú để chứng minh, bổ sung cho lý luận và ngược lại là một trong những phương pháp nghiên cứu của đề tài này.
- Phương pháp mô tả kết hợp so sánh, đối chiếu: So sánh, đối chiếu các quy định về ủy quyền, về đại diện theo ủy quyền trong BLTTDS; trong BLTTDS với BLDS và với một số văn bản hướng dẫn khác, so sánh các quy định hiện hành với các quy định trước đây về ủy quyền trong tố tụng dân sự để tìm ra những quy định phù hợp với thực tiễn cuộc sống, từ đó việc kiến nghị sẽ hoàn thiện hơn.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn được kết cấu theo 3 phần: Phần mở đầu, Phần nội dung và Phần kết luận. Phần nội dung gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về đại diện theo uỷ quyền trong tố tụng dân sự Việt nam.
Chương 2: Nội dung các quy định của pháp luật hiện hành về đại diện theo uỷ quyền trong tố tụng dân sự.
Chương 3: Thực tiễn thực hiện các quy định về đại diện theo ủy quyền trong tố tụng dân sự và kiến nghị.
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐẠI DIỆN THEO ỦY QUYỀN TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM
1.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của đại diện theo ủy quyền trong tố tụng dân sự
1.1.1. Khái niệm đại diện theo ủy quyền trong tố tụng dân sự
Cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền tự do xác lập, thực hiện, định đoạt các hành vi không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội để phục vụ cho nhu cầu, sở thích của mình, quyền và lợi ích của người khác. Vì lý do nào đó mà các chủ thể trên không thể tự mình thực hiện được một phần hoặc tất cả công việc thì có thể ủy quyền cho người khác làm thay. Khi bên ủy quyền và bên được ủy quyền xác lập một quan hệ ủy quyền, tức là đã xác lập sự thỏa thuận giữa các bên (có thể có thù lao hoặc không có thù lao), theo đó bên được ủy quyền được quyền thay mặt và nhân danh bên ủy quyền thực hiện một số hành vi nhất định trong phạm vi ủy quyền, làm phát sinh quyền và nghĩa vụ pháp lý liên quan đến quyền lợi của bên ủy quyền hoặc của bên thứ ba liên quan. Cá nhân, người đại diện theo pháp luật của pháp nhân có thể ủy quyền cho người khác xác lập, thực hiện giao dịch dân sự. Tuy nhiên không phải mọi cá nhân đều có thể làm người đại diện theo ủy quyền, Điều 143 BLDS 2005 quy điṇ h “Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi có thể là người đại diện theo ủy quyền, trừ trường hợp pháp luật quy định giao dịch dân sự phải do người từ đủ mười tám tuổi trở lên xác lập, thực hiện”. Đại diện theo ủy quyền là đại diện được xác lập theo sự ủy quyền giữa người đại diện và người được đại diện thông qua hợp đồng ủy quyền hoặc giấy ủy quyền. Người đại diện theo ủy quyền có quyền, nghĩa vụ dân sự phát sinh từ giao dịch dân sự do người được đại diện xác lập, thực hiện trong
phạm vi thẩm quyền đại diện. Giao dịch dân sự do người đại diện theo ủy quyền xác lập, thực hiện vượt quá thẩm quyền đại diện không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ đối với người được đại diện, trừ trường hợp được người đó chấp thuận. Việc ủy quyền phải được lập thành văn bản [26, tr.225].
Khi cho rằng quyền, lợi ích hợp pháp của mình, của người khác, lợi ích công cộng, lợi ích Nhà nước bị xâm phạm thì cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền làm đơn khởi kiện hoặc làm đơn yêu cầu Tòa án giải quyết. Người khởi kiện; người được cá nhân, cơ quan, tổ chức khác khởi kiện; cơ quan, tổ chức khởi kiện để bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích Nhà nước; người có đơn yêu cầu Tòa án công nhận quyền hoặc công nhận sự kiện pháp lý làm phát sinh quyền, nghĩa vụ dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh thương mại, lao động; người bị kiện; người tuy không khởi kiện, không bị kiện, không có đơn yêu cầu nhưng việc giải quyết tại Tòa án có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ được gọi là đương sự.
Quá trình giải quyết tại Tòa án các tranh chấp, yêu cầu phát sinh trong lĩnh vực tư bao gồm: dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh – thương mại, lao động được gọi là tố tụng dân sự. Theo từ điển Hán Việt của Đào Duy Anh: "tố tụng" là việc thưa kiện (procès), "tố tụng pháp lý" là việc pháp luật quy định những thủ tục về cách tố tụng (code deprocédure)" (Trường Thi xuất bản, Sài Gòn, 1957, tr.302). Thời Pháp thuộc, người ta dùng hai chữ "tố tụng" để dịch chữ "procédure" (chữ Pháp procédure hay chữ Anh procedure đều bắt nguồn từ chữ La tinh processus nghĩa là quá trình, trình tự, thủ tục).
Theo cuốn Từ điển luật học của Viện khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp thì tố tụng dân sự là trình tự hoạt động do pháp luật quy định cho việc xem xét giải quyết vụ án và thi hành án dân sự [26, tr.785]. Được ghép từ danh từ “tố tụng” là kiện thưa tại tòa án nói chung, nó gợi nên một cách thức cần thiết phải thực hiện để đạt được mục đích, và danh từ “dân sự” – civil đôi khi
được dùng tương đồng với danh từ prive – lĩnh vực luật tư, bởi bản chất thỏa thuận, bình đẳng của các bên trong việc xác lập, thay đổi và chấm dứt các quyền và nghĩa vụ. Mặc dù đều dùng để chỉ định một cách thức tiến hành bắt buộc nhưng danh từ “thủ tục” bao hàm nghĩa rộng hơn trên nhiều mặt, vượt ra ngoài nghĩa của trình tự giải quyết vụ việc tại tòa án (như thủ tục nhập học, thủ tục đi xuất khẩu lao động…). Trong một thời gian dài của quá trình phát triển, danh từ thủ tục đã được sử dụng thay cho danh từ tố tụng như: Thủ tục giải quyết vụ án dân sự, Thủ tục giải quyết vụ án kinh tế hay Thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động… đã không thể hiện rõ được bản chất của hoạt động tư pháp. Việc sử dụng cụm từ tố tụng dân sự là sát nghĩa và có tính chất triệt để hơn cả trong giai đoạn hiện nay, nó được hiểu dưới góc độ pháp lý là một ngành luật tố tụng cụ thể, còn dưới góc độ thực tiễn là những cách thức thực tiễn do các chủ thể tham gia vào quá trình tố tụng tiến hành.
Để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình tại Tòa án trong quá trình giải quyết các vụ việc theo thủ tục tố tụng dân sự, các đương sự có thể tự mình thực hiện các quyền, nghĩa vụ tố tụng do pháp luật quy định. Tuy nhiên trong thực tiễn, không phải trong mọi trường hợp đương sự đều có thể tự mình tham gia tố tụng để thực hiện các quyền và nghĩa vụ đó để bảo vệ quyền lợi chính đáng cho mình hoặc cho bên thứ ba. Có thể có nhiều lý do khác nhau: Do hạn chế về trình độ pháp lý, do không hoặc ít có kinh nghiệm tham gia tố tụng, do điều kiện khó khăn về khoảng cách địa lí, do già yếu, ốm đau hoặc do hạn chế về thời gian v.v...mà đương sự không thể tự mình tham gia tố tụng tại Tòa án được, việc thực hiện một phần hoặc toàn bộ các quyền và nghĩa vụ tố tụng của họ thông qua người đại diện. Người đại diện của đương sự là người tham gia tố tụng thay mặt đương sự thực hiện các quyền, nghĩa vụ tố tụng để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho đương sự trước Tòa án [1, tr.115].
Đại diện trong tố tụng dân sự bao gồm đại diện theo pháp luật và đại
diện theo ủy quyền. Đại diện theo ủy quyền trong tố tụng dân sự được xác lập trên cơ sở thỏa thuận giữa bên ủy quyền và bên đại diện theo ủy quyền dưới hình thức văn bản ủy quyền, đó cũng là cơ sở để bên đại diện tham gia tố tụng dân sự nhân danh và bảo vệ quyền lợi cho bên đương sự đã ủy quyền. Trên cơ sở kế thừa và phát triển các công trình nghiên cứu trước đây, dựa trên các khái niệm đại diện theo ủy quyền trong dân sự, tố tụng dân sự, đương sự trong tố tụng dân sự, có thể đưa ra khái niệm đại diện theo ủy quyền trong tố tụng dân sự như sau:
Đại diện theo ủy quyền trong tố tụng dân sự là đại diện được xác lập theo sự ủy quyền giữa bên đại diện và bên được đại diện thông qua văn bản ủy quyền, theo đó bên đại diện nhân danh và vì quyền lợi của bên được đại diện thực hiện các quyền, nghĩa vụ tố tụng trong phạm vi ủy quyền để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho bên được đại diện.
1.1.2. Đặc điểm của đại diện theo ủy quyền trong tố tụng dân sự
- Người đại diện theo ủy quyền tham gia tố tụng dân sự trên cơ sở quan hệ ủy quyền:
Khác với quan hệ đại diện theo pháp luật là loại đại diện bắt buộc phải
có do ngườ i đươc
đaị diên
là người chưa thành niên , người bị hạn chế hoặc
mất năng lưa
hà nh vi dân sư,
quan hê ̣đaị diên
theo ủy quyền đươc
hình thành
trên cơ sở thỏa thuân
, thể hiên
ý chí giữa bên ủy quyền và bên đại diện theo
ủy quyền. Khi đương sự không thể hoặc không muốn tham gia tố tụng dân sự thì có thể ủy quyền cho người khác thay mặt mình tham gia tố tụng. Quan hệ ủy quyền là cơ sở để người đại diện theo ủy quyền của đương sự tham gia vào quan hệ tố tụng, có thể dựa trên quan hệ họ hàng, quen biết, tin tưởng, cũng có thể dựa trên cơ sở hợp đồng có thù lao. Việc đại diện theo ủy quyền trong tố tụng dân sự luôn tồn tại hai quan hệ: Quan hệ giữa bên đại diện theo ủy quyền với bên được đại diện, trong đó quyền và nghĩa vụ của các bên dựa trên