53
mà Kiểm sát viên VKSND cấp huyện tham gia. Đối với giai đoạn nghị án, đây là hoạt động được tiến hành không có sự tham gia của Kiểm sát viên VKSND cấp huyện cũng như bị cáo, người bào chữa nên không thể tồn tại hoạt động tranh tụng. Ngay cả trong trường hợp kết thúc việc nghị án, HĐXX quyết định trở lại việc xét hỏi và tranh luận nếu có tình tiết của vụ án chưa được xét hỏi, chưa được làm sáng tỏ thì nghị án cũng là một giai đoạn độc lập không bao hàm hoạt động tranh tụng của Kiểm sát viên VKSND cấp huyện.
Căn cứ quy định pháp luật hiện hành: Hệ thống VKSND bao gồm: VKSND tối cao, VKSND cấp cao, VKSND cấp tỉnh, VKSND cấp huyện và VKS quân sự các cấp. VKSND cấp huyện gồm có “Viện trưởng, các Phó Viện trưởng, KSV, Kiểm tra viên, công chức khác và người lao động” [85]. Trong đó, KSV cấp huyện là một chức danh tư pháp trong VKSND cấp huyện.
Kiểm sát viên VKSND cấp huyện có nhiệm vụ, quyền hạn: Thực hành quyền công tố, kiểm sát các hoạt động tư pháp thuộc thẩm quyền VKSND cấp huyện theo phân công của Viện trưởng và chịu trách nhiệm trước Viện trưởng. Khi thực hiện nhiệm vụ, KSV phải tuân theo pháp luật và chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Viện trưởng VKSND cấp huyện, sự lãnh đạo thống nhất của Viện trưởng VKSNDTC. Kiểm sát viên có quyền từ chối nhiệm vụ được giao khi có căn cứ cho rằng việc đó là trái pháp luật; nếu Viện trưởng vẫn quyết định thì KSV phải chấp hành, nhưng Viện trưởng phải chịu trách nhiệm về quyết định của mình; trong trường hợp này KSV có quyền báo cáo lên Viện trưởng cấp trên trực tiếp và không phải chịu trách nhiệm về hậu quả của việc thi hành quyết định đó. Kiểm sát viên phải từ chối tiến hành tố tụng hoặc bị thay đổi trong các trường hợp do pháp luật tố tụng quy định.
Theo quy định của Bộ luật TTHS năm 2015 thì Kiểm sát viên VKSND cấp huyện là người tiến hành tố tụng trong TTHS, được bổ nhiệm theo quy định của pháp luật, thực hiện chức năng thực hành quyền công tố, kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tố tụng đối với các vụ án hình sự.
Kiểm sát viên được phân công thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tố tụng đối với vụ án hình sự có những nhiệm vụ và quyền hạn theo Điều 42 Bộ luật TTHS năm 2015. Đặc biệt, với quy định về thủ tục tranh tụng tại phiên tòa (từ Điều 306 đến Điều 325 Bộ luật TTHS năm 2015) cho
54
thấy giới hạn tranh tụng được nêu với cơ sở pháp lý rõ ràng. Trong đó, KSV tiến hành hoạt động tranh tụng bắt đầu từ khi công bố cáo trạng và ý kiến bổ sung (nếu có) đến trước khi nghị án. Tranh luận - phần trọng tâm và quan trọng nhất của tranh tụng - phản ánh sự trình bày, bảo vệ quan điểm của bị cáo, người bào chữa, người tham gia tố tụng khác để đối đáp với KSV; cũng là thời điểm KSV phải “đưa ra chứng cứ, tài liệu và lập luận để đối đáp đến cùng từng ý kiến của bị cáo, người bào chữa, người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa” (Điều 322). Sự tham gia của chủ thể là Kiểm sát viên VKSND cấp huyện - với thẩm quyền được phân cấp, gắn liền với thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của KSV trong phiên tòa XXST. Do đó, giới hạn đề cập tới phiên tòa XXHS trong đề tài là phiên tòa XXST hình sự; việc sử dụng thuật ngữ “tranh tụng của Kiểm sát viên VKSND cấp huyện tại phiên tòa XXHS” có nghĩa tương đồng với “tranh tụng của Kiểm sát viên VKSND cấp huyện tại phiên tòa XXST hình sự”.
Có thể bạn quan tâm!
- Tình Hình Nghiên Cứu Ở Nước Ngoài
- Đánh Giá Tình Hình Nghiên Cứu Liên Quan Đến Đề Tài Luận Án
- Khái Niệm, Đặc Điểm Và Yêu Cầu Của Cải Cách Tư Pháp Về Chất Lượng Tranh Tụng Của Kiểm Sát Viên Viện Kiểm Sát Nhân Dân Cấp Huyện Tại Phiên Tòa
- Yêu Cầu Của Cải Cách Tư Pháp Đối Với Chất Lượng Tranh Tụng Của Kiểm Sát Viên Viện Kiểm Sát Nhân Dân Cấp Huyện Tại Phiên Tòa Xét Xử Hình Sự
- Các Yếu Tố Bảo Đảm Chất Lượng Tranh Tụng Của Kiểm Sát Viên Viện Kiểm Sát Nhân Dân Cấp Huyện Tại Phiên Tòa Xét Xử Hình Sự Theo Yêu Cầu Cải Cách
- Tranh Tụng Của Kiểm Sát Viên (Công Tố Viên) Tại Phiên Tòa Xét Xử Hình Sự Một Số Nước Trên Thế Giới Và Giá Trị Tham Khảo Cho Việt Nam
Xem toàn bộ 220 trang tài liệu này.
Từ sự phân tích trên có thể khẳng định: Tranh tụng của Kiểm sát viên VKSND cấp huyện tại phiên tòa XXHS là hoạt động tố tụng của Kiểm sát viên VKSND cấp huyện tại phiên tòa XXST hình sự, thông qua việc đưa ra quan điểm, chứng cứ, lập luận, đối đáp và bảo vệ quan điểm của VKS; trên cơ sở sự thật khách quan của vụ án và quy định của pháp luật; dưới sự điều khiển của Tòa án (HĐXX) với vai trò trung gian, trọng tài; từ đó giúp cho Tòa án (HĐXX) đưa ra những phán quyết đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Như vậy, tranh tụng của Kiểm sát viên VKSND cấp huyện tại phiên tòa XXHS có những đặc điểm sau:
Thứ nhất, đây là hoạt động tố tụng của Kiểm sát viên VKSND cấp huyện tại phiên tòa XXST hình sự. Xuất phát từ địa vị pháp lý của mình, Kiểm sát viên VKSND cấp huyện chỉ có thể thực hiện hoạt động tố tụng tại một loại phiên tòa XXHS - phiên tòa XXST hình sự. Đây là phiên tòa xét xử vụ án hình sự lần đầu, có sự tham gia đầy đủ các thành phần tiến hành tố tụng và tham gia tố tụng (theo quy định của pháp luật). Tại phiên tòa này, Kiểm sát viên VKSND cấp huyện là người đại diện VKS, thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động xét xử. Trong đó, khi tranh tụng, Kiểm sát viên VKSND cấp huyện đã nhân danh Nhà nước thực hiện quyền công tố, buộc tội bị cáo trước tòa.
55
Thứ hai, hoạt động tranh tụng của Kiểm sát viên VKSND cấp huyện tiến hành tại phiên tòa XXST hình sự thông qua việc đưa ra quan điểm, chứng cứ, lập luận, tiến hành đối đáp đến cùng và bảo vệ quan điểm của VKS. Tại phiên tòa này, KSV đưa ra quan điểm, chứng cứ, lập luận buộc tội với việc trình bày, công bố Bản cáo trạng, tham gia xét hỏi để làm rõ các nội dung của vụ án, phục vụ cho việc củng cố quan điểm buộc tội, tiến hành luận tội đối với bị cáo, tranh luận, đối đáp đến cùng từng ý kiến của bị cáo, những người tham gia tố tụng khác để bảo vệ quan điểm của VKS. Tổng hợp các hoạt động nêu trên đều thuộc phạm vi tranh tụng của KSV.
Thứ ba, hoạt động tranh tụng của Kiểm sát viên VKSND cấp huyện tại phiên tòa XXST hình sự có chủ thể đối tụng là bị cáo, người bào chữa và các chủ thể tham gia tố tụng khác. Trong đó, bị cáo, người bào chữa (gọi chung là bên bào chữa) là chủ thể thực hiện chức năng gỡ tội và cũng là chủ thể đối tụng chủ yếu của KSV tại phiên tòa. Bị cáo có thể tự bào chữa, đối đáp với KSV nhưng cũng có thể nhờ người khác bào chữa (luật sư, người đại diện của bị cáo, trợ giúp viên pháp lý, bào chữa viên nhân dân). Họ sẽ đưa những chứng cứ, lập luận để bác bỏ sự buộc tội của VKS hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo. Bên cạnh đó, tranh tụng với KSV tại phiên tòa còn có thể là người tham gia tố tụng khác như bị hại; đương sự; người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại, đương sự. Đối với chủ thể này, họ tranh tụng liên quan đến việc cho rằng quyền, lợi ích hợp pháp của họ chưa được bảo vệ thỏa đáng.
Thứ tư, nội dung tranh tụng của Kiểm sát viên VKSND cấp huyện tại phiên tòa XXST hình sự là gắn liền với các hoạt động của KSV khi công bố Bản cáo trạng, truy tố bị cáo trước tòa; tham gia xét hỏi làm rõ nội dung, tình tiết vụ án, làm cơ sở cho việc buộc tội bị cáo; trình bày Bản luận tội và tranh luận tại phiên tòa. Trong đó, nội dung tranh tụng bao gồm vấn đề KSV chủ động khẳng định, củng cố qua công bố cáo trạng, xét hỏi, buộc tội và vấn đề đối đáp với bị cáo, người bào chữa, người tham gia tố tụng khác. Những vấn đề trong tranh luận được coi là phần cao trào, đỉnh điểm của tranh tụng, bao gồm:
Những chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định vô tội; tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội; hậu quả do hành vi phạm tội gây ra; nhân thân và vai trò của bị cáo trong vụ án; những tình
56
tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, mức hình phạt; trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, biện pháp tư pháp; nguyên nhân, điều kiện phạm tội và những tình tiết khác có ý nghĩa đối với vụ án. [87].
Thứ năm, hoạt động tranh tụng của Kiểm sát viên VKSND cấp huyện tại phiên tòa XXST hình sự với việc công bố Bản cáo trạng là sự khởi đầu cho hoạt động tranh tụng tại phiên tòa, nội dung tranh tụng mang tính toàn diện, kết quả tranh tụng là cơ sở để Tòa án (HĐXX) xem xét khi ban hành phán quyết. Sau khi KSV công bố cáo trạng, các hoạt động tranh tụng của các chủ thể khác sẽ được tiến hành. Khác với tranh tụng của bên bào chữa và người tham gia tố tụng khác, tranh tụng của KSV được thể hiện đầu tiên qua sự khẳng định quan điểm trong Bản cáo trạng. Từ đó, các chủ thể tranh tụng khác, dựa trên cáo trạng và các tình tiết có liên quan, sẽ tiến hành tranh tụng để bảo vệ quan điểm của mình. Hoạt động tranh tụng của KSV luôn mang tính chủ động, với sự chuẩn bị kỹ lưỡng của KSV trên cơ sở nghiên cứu, tiếp cận hồ sơ vụ án, có kế hoạch xét hỏi và đã dự kiến trước các tình huống xảy ra tại phiên tòa. Tranh tụng của Kiểm sát viên VKSND cấp huyện tại phiên tòa XXST hình sự có mục đích đối lập với tranh tụng của bên bào chữa. Kiểm sát viên hướng tới bảo vệ quan điểm buộc tội, còn bên bào chữa hướng tới bảo vệ quan điểm gỡ tội. Tranh tụng của Kiểm sát viên VKSND cấp huyện tại phiên tòa XXST hình sự khác với tranh tụng của Kiểm sát viên VKSND cấp tỉnh tại phiên tòa phúc thẩm hình sự ở phạm vi tranh tụng. Trong phiên tòa XXST hình sự, phạm vi tranh tụng của Kiểm sát viên VKSND cấp huyện toàn diện hơn, bao gồm tất cả các vấn đề có liên quan đến việc buộc tội và gỡ tội, do các bên tranh tụng đưa ra. Với phiên tòa phúc thẩm hình sự, tranh tụng của Kiểm sát viên VKSND cấp tỉnh gắn liền với vấn đề kháng cáo, kháng nghị. Sau khi tiến hành tranh tụng, KSV có thể đưa ra những quyết định theo thẩm quyền như rút một phần quyết định truy tố hoặc kết luận về tội nhẹ hơn. Ngoài ra, kết quả tranh tụng của Kiểm sát viên VKSND cấp huyện tại phiên tòa XXST hình sự là căn cứ quan trọng để tòa án (HĐXX) ban hành phán quyết.
- Khái niệm “chất lượng”:
“Chất lượng” (quality) là một phạm trù trừu tượng, mang tính chất định tính và rất khó định lượng. Theo các cách tiếp cận khác nhau, cách giải thích về “chất lượng” cũng khác nhau:
57
Trong Đại từ điển Tiếng Việt, chất lượng được khẳng định là “cái làm nên phẩm chất, giá trị của con người, sự vật” [106, tr.331]; Từ điển Tiếng Việt giải thích “chất lượng là cái tạo nên phẩm chất, giá trị của một sự vật, sự việc” [107, tr.199].
Trên phương diện triết học: Chất lượng (chất) là một phạm trù triết học biểu thị tính quy định vốn có của các sự vật và hiện tượng, là sự thống nhất hữu cơ của những thuộc tính, những yếu tố cấu thành sự vật, nói lên sự vật đó là gì, phân biệt nó với các sự vật và hiện tượng khác.
Trong lĩnh vực xây dựng và hoàn thiện bộ máy Nhà nước, hệ thống pháp luật, thuật ngữ “chất lượng” được sử dụng rất phổ biến nhưng chưa có cách định nghĩa đầy đủ, rõ ràng về vấn đề này. Trên cơ sở tiếp cận trong phạm vi đề tài này, chúng tôi thừa nhận khái niệm chất lượng trong Từ điển Tiếng Việt: Chất lượng là “cái tạo nên phẩm chất, giá trị của mỗi con người, một sự vật, một sự việc” [155, tr.144] làm cơ sở để xây dựng khái niệm chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên VKSND cấp huyện tại phiên tòa XXHS - khái niệm chất lượng của một loại hoạt động của chủ thể là cán bộ tư pháp. Bên cạnh đó, chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên VKSND cấp huyện tại phiên tòa còn được xem xét ở góc độ đáp ứng yêu cầu của CCTP.
Công cuộc CCTP được ĐCSVN lãnh đạo đã đạt được những kết quả quan trọng trên thực tế; phản ánh chủ trương đúng đắn của Đảng; được thể hiện trong các văn kiện của Đảng, đặc biệt là Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa IX, Kết luận 92-KL/TW của Bộ Chính trị, Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng và định hướng chủ trương “Nghiên cứu, ban hành Chiến lược hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam đến năm 2030, định hướng đến năm 2045, trong đó có Chiến lược pháp luật và CCTP” [26]. Trong đó, Đảng xác định mục tiêu, quan điểm, nhiệm vụ CCTP và phương hướng lãnh đạo công cuộc CCTP trong thời gian tới. Cụ thể:
Về mục tiêu CCTP: CCTP nhằm đạt được mục tiêu “Xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam XHCN; hoạt động tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả và hiệu lực cao” [10]. Trên cơ sở mục tiêu, Đảng xác định năm quan điểm CCTP, với nội dung khẳng định sự lãnh
58
đạo của Đảng; phải được tiến hành khẩn trương, đồng bộ, có trọng tâm, trọng điểm với những bước đi vững chắc [10]. Đồng thời, tám nhiệm vụ CCTP cũng đã được xác định, triển khai thực hiện nhằm đạt được mục tiêu trên. Đặc biệt, trong nhiệm vụ CCTP, Đảng nêu rõ: Khâu đột phá của hoạt động tư pháp là nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa xét xử [10]; nhấn mạnh trọng tâm thực hiện “bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử” [25].
Như vậy, yêu cầu CCTP thể hiện: CCTP phải đáp ứng mục tiêu, quán triệt quan điểm chỉ đạo, thực hiện nhiệm vụ CCTP và đảm bảo trọng tâm định hướng CCTP trong giai đoạn mới. Các yêu cầu CCTP nêu trên đặt ra các yêu cầu, đòi hỏi đối với chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên VKSND cấp huyện tại phiên tòa XXHS. Đó là, hoạt động tranh tụng của KSV phải bảo đảm công bằng, bình đẳng, dân chủ, công khai; phải tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân; thực hiện tốt chức năng công tố của VKSND, nhiệm vụ, quyền hạn của KSV; góp phần bảo đảm truy tố, xét xử đúng người, đúng tội, đảm bảo không xảy ra oan sai và bỏ lọt tội phạm; đáp ứng yêu cầu xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Tranh tụng của Kiểm sát viên VKSND cấp huyện phải bảo vệ được quan điểm của VKS, thỏa mãn các yêu cầu, đòi hỏi của các chủ thể tranh tụng với KSV, hướng tới mục đích cao nhất và cuối cùng là phải làm rõ, xác định chính xác sự thật khách quan của vụ án. Vì thế, các chủ thể (tiến hành và tham gia tố tụng), trong phạm vi nhiệm vụ, trách nhiệm của mình sẽ phải tiến hành các hoạt động nhằm hướng tới mục đích trên.
Từ các lập luận trên, chúng tôi cho rằng, để khẳng định chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên VKSND cấp huyện tại phiên tòa XXHS theo yêu cầu CCTP cần phải trên cơ sở tiếp cận nội hàm thuật ngữ “chất lượng”, gắn liền với đặc trưng và kết quả hướng tới của hoạt động tranh tụng tại phiên tòa XXST, bám sát vai trò, trách nhiệm của Kiểm sát viên VKSND cấp huyện khi tham gia tại phiên tòa; đồng thời, luôn quán triệt sâu sắc sự lãnh đạo của Đảng về CCTP.
Do vậy, có thể khẳng định: Chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên VKSND cấp huyện tại phiên tòa XXHS theo yêu cầu của CCTP là tổng hợp các yếu tố tạo
59
nên giá trị trong hoạt động tranh tụng của Kiểm sát viên VKSND cấp huyện; phản ánh mức độ tương quan trong việc đáp ứng yêu cầu của CCTP.
Trong đó, các yếu tố tạo nên giá trị trong hoạt động tranh tụng của Kiểm sát viên VKSND cấp huyện tại phiên tòa XXHS đáp ứng yêu cầu của CCTP bao gồm:
Tranh tụng của Kiểm sát viên VKSND cấp huyện tại phiên tòa XXHS phải bảo đảm nguyên tắc cơ bản trong TTHS, theo đúng nội dung, thủ tục tranh tụng do Bộ luật TTHS quy định.
Kiểm sát viên VKSND cấp huyện phải thuần thục các kỹ năng tranh tụng tại phiên tòa XXHS, bảo đảm tranh tụng sát với dự kiến khi chuẩn bị tranh tụng, thực hiện đúng quy tắc ứng xử của KSV tại phiên tòa theo quy định của VKSNDTC.
Tranh tụng của Kiểm sát viên VKSND cấp huyện tại phiên tòa XXHS phải bảo vệ được quan điểm của VKS, thỏa mãn các yêu cầu, đòi hỏi của các chủ thể tranh tụng với KSV, bảo vệ công lý, khẳng định cơ sở pháp lý và thực tiễn trong buộc tội của VKS, góp phần làm rõ sự thật khách quan của vụ án.
Tranh tụng của Kiểm sát viên VKSND cấp huyện tại phiên tòa XXHS phải đem lại kết quả, được Tòa án (HĐXX) chấp nhận, lấy đó làm căn cứ ra phán quyết đối với vụ án.
Tranh tụng của Kiểm sát viên VKSND cấp huyện tại phiên tòa XXHS phải bảo vệ được uy tín của VKS và KSV tham gia phiên tòa.
Tranh tụng của Kiểm sát viên VKSND cấp huyện tại phiên tòa XXHS có tác dụng tốt trong phổ biến, giáo dục pháp luật cho những người tham dự phiên tòa và nhân dân.
Tranh tụng của Kiểm sát viên VKSND cấp huyện tại phiên tòa XXHS phải đáp ứng yêu cầu của CCTP gồm: Bảo đảm công bằng, bình đẳng, dân chủ, công khai; tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân; thực hiện tốt chức năng công tố của VKSND, nhiệm vụ, quyền hạn của KSV; góp phần bảo đảm truy tố, xét xử đúng người, đúng tội, không xảy ra oan sai và bỏ lọt tội phạm và xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam XHCN.
60
2.1.1.2. Đặc điểm chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân cấp huyện tại phiên tòa xét xử hình sự theo yêu cầu cải cách tư pháp
Xuất phát từ địa vị pháp lý của KSV và những người tham gia tranh tụng khác, KSV có vai trò đặc biệt trong hoạt động tranh tụng. Vì vậy, kết quả của hoạt động tranh tụng, chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên VKSND cấp huyện có ý nghĩa rất lớn đối với việc giải quyết vụ án, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân. Các đặc điểm chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên VKSND tại phiên tòa XXST hình sự theo yêu cầu CCTP bao gồm:
- Sự tuân thủ đầy đủ, nghiêm chỉnh, triệt để các quy định pháp luật có liên quan của KSV trong quá trình tranh tụng tại phiên tòa XXHS; đồng thời, tôn trọng nguyên tắc bình đẳng trong tranh tụng tại phiên tòa với bên gỡ tội và các chủ thể tranh tụng khác.
Hoạt động tranh tụng của KSV tại phiên tòa XXHS được điều chỉnh trực tiếp bởi các quy phạm pháp luật TTHS. Trong đó, loại quy phạm này đã nêu rõ nội dung, thủ tục tranh tụng nói chung và tranh tụng của KSV nói riêng. Việc tuân thủ đầy đủ, nghiêm chỉnh, triệt để các quy định pháp luật có liên quan trong tranh tụng chính là bảo đảm nguyên tắc pháp chế trong tranh tụng. Vi phạm bất kỳ quy định nào của pháp luật trong tranh tụng là xâm phạm nguyên tắc pháp chế và không thể coi đó là hoạt động tranh tụng có chất lượng. Thực hiện yêu cầu này cũng là bảo đảm tính hợp pháp của hoạt động tranh tụng. Chính vì vậy, đây được coi là một đặc điểm quan trọng.
Bên cạnh đó, xuất phát từ bản chất của tranh tụng trong TTHS là sự trình bày quan điểm, khẳng định chứng cứ, tài liệu, đối đáp, tranh luận với nhau giữa bên buộc tội và bên bào chữa, nhằm bảo vệ quan điểm, làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án nên tranh tụng tại phiên tòa XXHS phải được thực hiện theo nguyên tắc bình đẳng. Nguyên tắc bình đẳng là những tư tưởng chỉ đạo cơ bản, định hướng hoạt động tranh tụng; không nên hiểu là sự ngang bằng tuyệt đối về quyền và nghĩa vụ mà đây là sự bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trên cơ sở thực hiện chức năng của hai bên đối tụng tại tòa. Do đó, bình đẳng trong tranh tụng là bình đẳng trên phương diện tố tụng khi tham gia phiên tòa, đều được pháp luật quy định để thực hiện các chức năng của mình. Điều này được thể hiện: Bình đẳng về việc khẳng định, dù là