125
- Bảo đảm chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên VKSND cấp huyện tại phiên tòa XXHS phải đề cao dân chủ XHCN, củng cố tính nghiêm minh của pháp luật
Hoạt động tranh tụng tại phiên tòa với sự tham gia của các bên đối tụng; thừa nhận họ có những quyền và nghĩa vụ nhất định; bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, bảo vệ quan điểm; kết quả của hoạt động tranh tụng tại phiên tòa giúp cho HĐXX đánh giá đầy đủ, khách quan vụ án là biểu hiện của dân chủ XHCN ngay trong giai đoạn xét xử. Tham gia tranh tụng tại phiên tòa, Kiểm sát viên VKSND cấp huyện phải thể hiện được vai trò, trách nhiệm của mình; lắng nghe, tôn trọng sự trình bày của những người tham gia tố tụng; sẵn sàng trả lời, tranh luận, chất vấn để bảo vệ quan điểm hoặc thậm chí có những quyết định phù hợp như đề nghị thay đổi tội danh, khung hình phạt nhẹ hơn hoặc rút một phần hay toàn bộ quyết định truy tố. Sự tập trung trí tuệ, đánh giá khách quan mọi diễn biến tại phiên tòa, đưa ra quyết định hợp pháp, hợp lý, nhanh chóng là đòi hỏi không thể thiếu đối với KSV. Đây cũng là những đánh giá về chất lượng tranh tụng của KSV tại phiên tòa. Vì thế, chủ trương tăng cường hoạt động tranh tụng tại phiên tòa, về bản chất, luôn gắn liền với dân chủ XHCN. Qua đó, củng cố địa vị pháp lý của công dân, của cơ quan nhà nước, sự công khai, minh bạch của quá trình tố tụng, sự tin tưởng của nhân dân vào những cơ quan thay mặt nhân dân thực hiện QLNN. Tuy nhiên, dân chủ XHCN không có nghĩa là xa rời pháp chế XHCN. Dân chủ XHCN phải gắn liền và được củng cố trên nền tảng của pháp chế XHCN. Điều này phản ánh, quá trình thực hiện pháp luật, không thể tách rời yêu cầu phải bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật. Trong TTHS nói chung và các hoạt động cụ thể như tranh tụng tại phiên tòa của KSV nói riêng phải bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật. Không thể cào bằng, xóa nhòa ranh giới của việc “tranh tụng” với “ngang hàng” tuyệt đối vị trí, vai trò của KSV với những người tham gia tố tụng khác; không được lợi dụng việc tranh tụng bình đẳng để có những phát ngôn, hành vi không tôn trọng cơ quan đại diện QLNN thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động xét xử. Mỗi chủ thể tham gia trong quá trình TTHS, nhất là giai đoạn xét xử, có địa vị pháp lý riêng. Địa vị pháp lý đó phản ánh nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của từng chủ thể. Thực hiện đúng, đầy đủ, nghiêm chỉnh các nghĩa vụ, quyền hạn của mình là biểu hiện sự tôn trọng
126
pháp luật, tính nghiêm minh của pháp luật. Tại phiên tòa XXHS, nơi những phán quyết của HĐXX sẽ mang lại những hậu quả bất lợi đối với người vi phạm pháp luật hình sự, phải là nơi khẳng định và thể hiện sự tôn vinh tính nghiêm minh của pháp luật cao nhất, rõ nét nhất. Do đó, tại phiên tòa sơ thẩm, phiên tòa xét xử lần đầu vụ án hình sự, bằng hoạt động tranh tụng, Kiểm sát viên VKSND cấp huyện phải phản ánh được sự thống nhất giữa việc đề cao dân chủ XHCN với củng cố tính nghiêm minh của pháp luật.
4.1.3. Bảo đảm chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân cấp huyện tại phiên tòa xét xử hình sự phải góp phần củng cố uy tín, truyền thống và đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của ngành Kiểm sát nhân dân trong tình hình mới
Sự hình thành và phát triển của hệ thống VKSND gắn liền với quá trình ra đời, phát triển của bộ máy Nhà nước Việt Nam. Trong mỗi giai đoạn lịch sử, VKSND được xác định những chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể, phản ánh sự đánh giá, tin tưởng của Đảng, Nhà nước đối với hệ thống cơ quan nhà nước giữ vai trò quan trọng trong bảo đảm QLNN được thực hiện đúng đắn, thể hiện đúng ý chí, nguyện vọng của nhân dân và vai trò bảo vệ công lý, đấu tranh chống mọi hành vi vi phạm pháp luật. Hiện nay, với mục tiêu tổng quát “củng cố, tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ XHCN” [26]; ĐCSVN xác định chủ trương xây dựng nền tư pháp nói chung và củng cố hoạt động tư pháp nói riêng. Trong đó, khẳng định việc tiếp tục đổi mới tổ chức, hoạt động và nâng cao uy tín của VKSND [26]. Như vậy, việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mỗi chức danh trong hệ thống VKSND đều hướng tới góp phần cùng toàn hệ thống VKSND hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn. Đối với Kiểm sát viên VKSND cấp huyện, hoạt động tranh tụng tại phiên tòa XXHS không chỉ thể hiện vị thế và trách nhiệm của cá nhân KSV mà còn thể hiện uy tín của cơ quan, đơn vị và ngành KSND. Thông qua những hoạt động cụ thể tại phiên tòa, người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng và người tham dự phiên tòa đánh giá uy tín, năng lực, trách nhiệm của KSV và chính cơ quan mà KSV làm việc. Vì thế, bảo đảm chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên VKSND cấp huyện tại phiên tòa XXHS phải góp phần
127
Có thể bạn quan tâm!
- Hạn Chế Và Nguyên Nhân Trong Đánh Giá Chất Lượng Tranh Tụng Của Kiểm Sát Viên Viện Kiểm Sát Nhân Dân Cấp Huyện Tại Phiên Tòa Xét Xử Vụ Án Hình Sự
- Chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân cấp huyện tại phiên tòa xét xử hình sự theo yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay - 15
- Quan Điểm Bảo Đảm Chất Lượng Tranh Tụng Của Kiểm Sát Viên Viện Kiểm Sát Nhân Dân Cấp Huyện Tại Phiên Tòa Xét Xử Hình Sự Đáp Ứng Yêu Cầu Cải
- Hoàn Thiện Pháp Luật Đảm Bảo Tranh Tụng Tại Phiên Tòa Theo Yêu Cầu Cải Cách Tư Pháp
- Tăng Cường Sự Lãnh Đạo Của Các Cấp Ủy Đảng Đối Với Nâng Cao Chất Lượng Tranh Tụng Tại Phiên Tòa Xét Xử Hình Sự Của Kiểm Sát Viên Viện
- Bảo Đảm Kinh Phí, Cơ Sở Vật Chất Phục Vụ Cho Nâng Cao Chất Lượng Hoạt Động Tranh Tụng Của Kiểm Sát Viên Viện Kiểm Sát Nhân Dân Cấp Huyện Tại
Xem toàn bộ 220 trang tài liệu này.
củng cố uy tín, truyền thống và đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của ngành KSND trong tình hình mới.
- Bảo đảm chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên VKSND cấp huyện tại phiên tòa XXHS phải phản ánh uy tín, truyền thống của ngành KSND
Từ năm 1945 đến năm 1958, cơ quan công tố nước ta chưa được tổ chức thành một hệ thống cơ quan độc lập mà được đặt trong hệ thống cơ quan Tòa án, có hai chức năng: Thực hành quyền công tố và giám sát các hoạt động tư pháp. Đến năm 1959, cơ quan công tố được tách ra khỏi hệ thống Tòa án, trở thành hệ thống cơ quan độc lập, trực thuộc và chịu sự lãnh đạo của Chính phủ. Ở địa phương, các Viện Công tố chịu sự lãnh đạo của Viện Công tố cấp trên về chuyên môn, nghiệp vụ và Ủy ban hành chính cùng cấp. Viện Công tố gồm Viện Công tố Trung ương, Viện Công tố phúc thẩm, Viện Công tố cấp tỉnh và Viện Công tố cấp huyện. Trong đó, điều tra, truy tố, giám sát hoạt động tư pháp… là những hoạt động cơ bản của Viện Công tố. Đến đầu những năm 60 của thế kỷ XX, khi cách mạng Việt Nam chuyển sang một giai đoạn mới, yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra lúc này là phải cải cách bộ máy nhà nước, trong đó có cơ quan công tố. Hiến pháp năm 1959 ra đời đã ghi nhận chế định VKSND, trong đó xác định vị trí, chức năng và các nguyên tắc cơ bản về tổ chức và hoạt động của hệ thống VKSND Việt Nam (Điều 105, 107, 108) [78]. Cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp, Luật Tổ chức VKSND năm 1960 được thông qua quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy của VKSND, đánh dấu sự ra đời của VKSND trong bộ máy nhà nước [79]. Tại Hội nghị nghiên cứu, quán triệt Luật Tổ chức VKSND năm 1960 của ngành KSND ngày 02/8/1960, đồng chí Trường Chinh, Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã nhấn mạnh đến sự cần thiết và trách nhiệm to lớn của VKSND. Trong đó, đã nêu rõ mục đích của việc thành lập VKSND là để đảm bảo nhiệm vụ chuyên chính dân chủ nhân dân, thực hiện dân chủ rộng rãi và phát triển nền dân chủ ấy. Bên cạnh đó, hoạt động này còn hướng tới bảo đảm pháp chế dân chủ nhân dân, luật pháp, quyền lợi chính đáng của nhân dân được tôn trọng. Rõ ràng, kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các cơ quan, tổ chức, cá nhân rất quan trọng. Thời kỳ này, kiểm sát phải hướng tới bảo đảm trấn áp phản cách mạng, không để chúng lọt lưới hoành hành, đảm bảo giữ gìn trật tự, an ninh, tài sản và
128
quyền lợi chính đáng của nhân dân. Hiến pháp năm 1959, Luật Tổ chức VKSND năm 1960 là những căn cứ pháp lý quan trọng cho sự ra đời hệ thống cơ quan VKSND với tư cách là một trong các hệ thống cơ quan nhà nước độc lập, thực thi QLNN, góp phần bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất từ phía các cơ quan, nhân viên nhà nước và mọi công dân. Với nhiệm vụ và quyền hạn đó, VKSND thực hiện hai công tác chủ yếu là công tác kiểm sát chung và công tác công tố. Để bảo đảm thực hiện thẩm quyền của mình, VKSND được tổ chức theo nguyên tắc tập trung thống nhất theo ngành dọc, chỉ trực thuộc cơ quan QLNN cao nhất (Quốc hội) và độc lập với hệ thống các cơ quan hành pháp. Mô hình này tiếp tục được ghi nhận trong Hiến pháp năm 1980 [80], Hiến pháp năm 1992 [81]. Tuy nhiên, đến Hiến pháp năm 1992 (được sửa đổi, bổ sung năm 2001) đã thu hẹp phạm vi hoạt động của VKS. VKS không thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong các lĩnh vực hành chính - kinh tế - xã hội (kiểm sát chung), tập trung thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp; thay vì có trách nhiệm bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất thì chỉ có trách nhiệm góp phần bảo vệ pháp chế XHCN [20].
Hiện nay, Hiến pháp năm 2013 quy định về VKSND trên cơ sở kế thừa và đổi mới. Trong đó, Điều 107 quy định: VKSND thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. VKSND gồm VKSND tối cao và các VKS khác do luật định. Như vậy, chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp của VKSND vẫn được giữ nguyên. Hiến pháp năm 2013 bổ sung thêm quy định về hệ thống VKSND gồm VKSND tối cao và các VKS khác do luật định, tạo cơ sở hiến định cho việc thành lập các VKS tương ứng với tổ chức hệ thống TAND với quan điểm TAND có vị trí trung tâm theo tinh thần CCTP tại Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị [84]. Về nguyên tắc tổ chức và hoạt động của VKSND, Hiến pháp năm 2013 tiếp tục ghi nhận, khẳng định, bảo đảm cho VKS hoạt động hiệu quả và đáp ứng nhiệm vụ đảm bảo cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất; đồng thời cũng bổ sung nguyên tắc hoạt động của KSV. Trong quá trình thực hành quyền công tố và tiến hành kiểm sát hoạt động tư pháp, KSV mặc dù chịu sự chỉ đạo của Viện trưởng, nhưng phải tuân theo pháp
129
luật. Cụ thể hóa quy định của Hiến pháp năm 2013, Luật tổ chức VKSND năm 2014 ra đời, quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của VKSND; Kiểm sát viên và các chức danh khác trong VKSND; bảo đảm hoạt động của VKSND. Theo giải thích trong Luật này, quá trình thực hành quyền công tố gắn liền với quá trình TTHS. VKSND thực hành quyền công tố nhằm bảo đảm: Sự truy tố khách quan, kết quả ban hành bản án phải kịp thời, nghiêm minh, tránh oan, sai nhưng cũng không bỏ lọt tội phạm.
Quá trình tranh tụng tại phiên tòa, Kiểm sát viên VKSND cấp huyện thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình phản ánh sự hiện thực hóa các chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của ngành KSND. Thông qua đó, chứng minh năng lực và phẩm chất của cán bộ trong ngành; truyền thống thực hiện nhiệm vụ và những thành quả đạt được trong quá trình hình thành và phát triển.
- Bảo đảm chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên VKSND cấp huyện tại phiên tòa XXHS phải đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới
Với quan điểm tiếp tục cải cách bộ máy Nhà nước; trong thời kỳ đổi mới, việc đặt vấn đề cải cách VKS đã được nêu ra, cần bảo đảm tính kế thừa và sự phát triển về chức năng, nhiệm vụ của VKS; trong đó có một số cải cách quan trọng:
Điều chỉnh phạm vi chức năng của VKS (VKS thôi thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong lĩnh vực hành chính, kinh tế, xã hội, tập trung thực hiện tốt chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp). Khi sửa đổi bổ sung Hiến pháp năm 1992, vấn đề trọng tâm là sửa đổi, bổ sung một số điều về tổ chức bộ máy Nhà nước làm cơ sở cho việc tiếp tục cải cách bộ máy Nhà nước đã được đặt ra, trình Quốc hội. Trong đó, sửa đổi Điều 137, điều chỉnh phạm vi chức năng của VKS được đánh giá là sửa đổi lớn nhất về bộ máy Nhà nước. Mục đích của việc sửa đổi này là:
Để VKS tập trung vào thực hiện chức năng công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp - là những nhiệm vụ không thể giao cho các cơ quan khác thực hiện và là hai lĩnh vực rất bức xúc. Không giao chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật cho VKS cũng là để khắc phục những trùng lặp về chức năng, nhiệm vụ trong tổ chức bộ máy của Nhà nước ta [119].
130
Quan điểm này đã được chấp thuận, ghi nhận trong quy định của Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi) và tiếp tục được ghi nhận trong Hiến pháp hiện hành.
Chuyển VKS thành Viện Công tố: Vấn đề này đã được chính thức xác định trong chủ trương cải cách VKS tại Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 về “Chiến lược CCTP đến năm 2020”, trong đó đề ra yêu cầu: VKS được tổ chức phù hợp với hệ thống tổ chức của Toà án; nghiên cứu việc chuyển VKS thành Viện Công tố, tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra… Đã có nhiều ý kiến khác nhau về vấn đề này, chủ yếu xoay quanh hai quan điểm, đồng thuận hoặc chưa đồng thuận. Trên cơ sở đánh giá khách quan, toàn diện các quan điểm khoa học, kết quả nghiên cứu do các cơ quan hữu quan đệ trình, vấn đề này đã được Bộ Chính trị kết luận và Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI ghi nhận theo hướng VKS tiếp tục thực hiện chức năng thực hành quyền công tố, kiểm sát các hoạt động tư pháp và duy trì mô hình VKS là một hệ thống cơ quan độc lập trong bộ máy Nhà nước như hiện nay. Trong đó, Kết luận số 79-KL/TW ngày 28/7/2010 của Bộ Chính trị nêu rõ: “VKSND có chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp như hiện nay” [13]; văn kiện Đại hội XI tiếp tục khẳng định: “VKS được tổ chức phù hợp với hệ thống tổ chức Toà án, bảo đảm tốt hơn các điều kiện để VKSND thực hiện hiệu quả chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp; tăng cường trách nhiệm công tố trong điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra” [24]; văn kiện Đại hội XII cũng nêu rõ: “VKSND thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp; được tổ chức phù hợp với hệ thống tổ chức của Tòa án; tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra” [25]. Đại hội XIII của Đảng khẳng định chủ trương “Tiếp tục xây dựng nền tư pháp Việt Nam chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân” [26]. Định hướng “Tiếp tục đổi mới tổ chức, nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động và uy tín của toà án nhân dân, VKSND, cơ quan điều tra, cơ quan thi hành án và các cơ quan, tổ chức tham gia vào quá trình tố tụng tư pháp…” [26].
Từ vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của VKSND được quy định trong Hiến pháp và Luật tổ chức VKSND; những cải cách quan trọng trong tổ chức và hoạt động của VKS; đặt ra những yêu cầu đối với VKS trong tình hình mới. Những yêu
131
cầu đó tập trung vào việc thể chế hóa chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng về chức năng, nhiệm vụ của VKS; tổng kết, đánh giá việc thực hiện các chức năng của VKS; thực hiện các giải pháp đồng bộ nâng cao chất lượng, hiệu quả thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của VKS trong điều kiện xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam và tích cực hội nhập quốc tế. Đó cũng là cơ sở đề ra những yêu cầu, đòi hỏi đối với các hoạt động của ngành KSND, trong đó có hoạt động tranh tụng của Kiểm sát viên VKSND cấp huyện tại phiên tòa XXHS. Hoạt động này có cơ sở chính trị - pháp lý vững chắc và cơ sở thực tiễn quan trọng. Do đó, Kiểm sát viên VKSND cấp huyện thực hiện có chất lượng hoạt động tranh tụng tại phiên tòa XXST vụ án hình sự phải được đánh giá và đặt trong mối quan hệ với việc đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng, củng cố tổ chức và hoạt động của VKSND trong tình hình mới.
4.2. GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM CHẤT LƯỢNG TRANH TỤNG CỦA KIỂM SÁT VIÊN VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN CẤP HUYỆN TẠI PHIÊN TÒA XÉT XỬ HÌNH SỰ ĐÁP ỨNG YÊU CẦU CẢI CÁCH TƯ PHÁP Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
4.2.1. Các giải pháp chung
4.2.1.1. Tăng cường kiểm soát việc thực hiện quyền tư pháp của Tòa án và Viện Kiểm sát
Quyền lực nhà nước là yếu tố đặc trưng của Nhà nước, thể hiện ưu thế, sức mạnh và hiệu quả quản lý nhà nước trong các lĩnh vực, đối với các đối tượng. Việc nắm giữ, tổ chức, sử dụng QLNN có hiệu quả mang lại những lợi ích to lớn trong việc củng cố, duy trì hoạt động của bộ máy Nhà nước, đạt mục đích đề ra. Tuy nhiên, QLNN luôn gắn với tha hóa QLNN, tiềm ẩn những nguy cơ gây nguy hại cho chính Nhà nước và sự phát triển của xã hội. Do đó, Hiến pháp năm 2013 quy định: QLNN là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp (Điều 2 Hiến pháp 2013) [84]. Yêu cầu kiểm soát QLNN đã, đang và sẽ luôn được đặt ra, gắn liền với quá trình tồn tại và phát triển của Nhà nước. Các cơ quan tư pháp nói chung và cơ quan điều tra, VKS, Tòa án nói riêng được nhiều nhà khoa học thừa nhận là những cơ quan thực hiện quyền tư pháp; trong tổ chức và hoạt động của mình phải được đặt trong cơ chế kiểm soát QLNN. Kiểm soát tốt, chặt chẽ chính là
132
điều kiện để cơ quan điều tra, VKS, Tòa án thực hiện đúng, đầy đủ chức năng, nhiệm vụ của mình, góp phần bảo đảm quốc gia phát triển nhanh, ổn định, bền vững. Đối với hoạt động tranh tụng của Kiểm sát viên VKSND cấp huyện tại phiên tòa sơ thẩm hình sự, khi được kiểm soát chặt chẽ sẽ ngăn ngừa, loại bỏ những nguy cơ thực hiện không đúng, việc làm sai trái của các chủ thể tiến hành tố tụng, làm cho quyền tư pháp được thực hiện đúng mong muốn, mục đích và đạt hiệu quả. Ở góc độ cụ thể, chính cơ chế kiểm soát QLNN, trong đó có kiểm soát quyền tư pháp, sẽ là yếu tố ràng buộc trách nhiệm cao trong thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của cán bộ, công chức ngành KSND; khẳng định kết quả thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn trong tranh tụng của KSV là một phần phản ánh kết quả công tác của toàn ngành KSND và phải chịu sự giám sát thực hiện từ tất cả các chủ thể khác.
Nội dung của giải pháp này là kiểm soát nội dung, phương thức, kết quả thực hiện quyền tư pháp của các cơ quan tư pháp nói chung và hoạt động của VKSND, TAND cấp huyện trong tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm hình sự nói riêng.
Thực hiện giải pháp này, cần tiến hành nhiều biện pháp đồng bộ, bao gồm:
- Hoàn thiện pháp luật về cơ chế kiểm soát QLNN. Hiện nay, trong Hiến pháp năm 2013 đã khẳng định phải kiểm soát việc thực hiện QLNN giữa các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Tuy nhiên, pháp luật xác lập cơ chế pháp lý như thế nào để kiểm soát QLNN thì chưa có các quy định cụ thể, rõ ràng. Nhiều công trình nghiên cứu khoa học đã đề cập đến các phương diện kiểm soát QLNN như kiểm soát QLNN giữa cơ quan thực hiện quyền tư pháp với cơ quan thực hiện quyền hành pháp, giữa cơ quan thực hiện quyền lập pháp với cơ quan thực hiện quyền hành pháp, quyền tư pháp… [1], [42], [111]. Mỗi nhóm giải pháp đều có những căn cứ, cơ sở và dự báo hiệu quả nhất định. Dưới góc nhìn của khoa học Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật; chúng tôi cho rằng phải thiết lập cơ chế kiểm soát QLNN đồng bộ; trong đó, từng nhánh quyền lực có khả năng chi phối, tác động, kiềm chế, thậm chí đối trọng với các nhánh quyền lực khác. Chi phối tới cả ba nhánh quyền lực đó và tất cả các cơ quan nhà nước - ở góc độ khác nhau đều tham gia thực hiện QLNN - thì phải có thứ quyền lực bao trùm lên tất cả. Đó chính là quyền lực nhân dân. Do đó, vị trí, vai trò của nhân dân phải được ghi nhận, củng cố và triển khai thực hiện từ lúc trao cho các cơ quan, hệ thống cơ quan