Các Yếu Tố Bảo Đảm Chất Lượng Tranh Tụng Của Kiểm Sát Viên Viện Kiểm Sát Nhân Dân Cấp Huyện Tại Phiên Tòa Xét Xử Hình Sự Theo Yêu Cầu Cải Cách

69


Trong phiên tòa XXST hình sự, tranh tụng của Kiểm sát viên VKSND cấp huyện là nghĩa vụ luật định, được tiến hành trên cơ sở quy định của Bộ luật TTHS năm 2015 về tranh tụng. Trong đó, vấn đề cốt lõi, khẳng định chất lượng tranh tụng của KSV là tuân thủ các nguyên tắc có tính chất chỉ đạo, định hướng hoạt động tranh tụng; tuân thủ quy định về nội dung và thủ tục tranh tụng. Xét ở góc độ chung, tất cả các nguyên tắc được quy định tại chương II Bộ luật TTHS năm 2015 đều phải được mọi cá nhân, tổ chức có liên quan tuân thủ. Tuy nhiên, đối với tranh tụng của Kiểm sát viên VKSND cấp huyện tại phiên tòa XXHS, các nguyên tắc sau có ý nghĩa quyết định tới chất lượng tranh tụng của KSV: Bảo đảm pháp chế XHCN trong TTHS (Điều 7); tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân (Điều 8); bảo đảm quyền bình đẳng trước pháp luật (Điều 9); suy đoán vô tội (Điều 13); xác định sự thật của vụ án (Điều 15); bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự (Điều 16); trách nhiệm thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong TTHS (Điều 20); tranh tụng trong xét xử được bảo đảm (Điều 26); tiếng nói và chữ viết dùng trong TTHS (Điều 29). Bên cạnh đó, Kiểm sát viên VKSND cấp huyện phải thực hiện theo đúng nội dung, trình tự tranh tụng đã được quy định. Các nội dung tranh tụng gắn liền với các bước, các giai đoạn mà Kiểm sát viên VKSND cấp huyện tranh tụng tại phiên tòa. Tranh tụng của Kiểm sát viên VKSND cấp huyện tại phiên tòa XXHS được bắt đầu từ khi KSV công bố Bản cáo trạng và kết thúc trước khi bước vào giai đoạn nghị án của HĐXX. Bảo đảm tuân thủ đầy đủ, nghiêm chỉnh quy định của Bộ luật TTHS về nội dung, thủ tục tranh tụng chính là bảo đảm thực hiện các yêu cầu pháp lý, bảo đảm tính hợp pháp trong tranh tụng của KSV. Các yêu cầu pháp lý này được thể hiện trong các hoạt động tố tụng mà KSV thực hiện, bao gồm: Công bố Bản cáo trạng, trình bày ý kiến bổ sung (nếu có); tiến hành xét hỏi từng người; công bố lời khai trong giai đoạn điều tra, truy tố trong trường hợp luật định; xem xét vật chứng; trình bày ý kiến; đưa ra quyết định rút một phần hoặc toàn bộ quyết định truy tố hoặc kết luận về tội nhẹ hơn; trình bày Bản luận tội; tranh luận. Chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên VKSND cấp huyện tại phiên tòa XXHS là tổng hợp các yếu tố tạo nên giá trị của các hoạt động tố tụng nêu, liên quan mật thiết đến việc trình bày, lập luận, bảo vệ quan điểm của VKS;

70


đối đáp các yêu cầu, phản bác quan điểm của bên gỡ tội; điều chỉnh quan điểm của VKS trên cơ sở xem xét, đánh giá kết quả tranh tụng tại phiên tòa.

+ Sự thuần thục trong kỹ năng tranh tụng; bảo đảm tiến hành tranh tụng sát với các dự kiến của KSV trước khi mở phiên tòa; thực hiện đúng quy tắc ứng xử của Kiểm sát viên VKSND cấp huyện trong tranh tụng tại phiên tòa XXHS

Kỹ năng tranh tụng của Kiểm sát viên VKSND cấp huyện tại phiên tòa XXHS là yếu tố rõ nét thể hiện trình độ, bản lĩnh, trách nhiệm của KSV, qua đó khẳng định giá trị của hoạt động tranh tụng. Sự thuần thục trong kỹ năng của KSV khi tranh tụng là một phần tất yếu tạo nên chất lượng tranh tụng của KSV. Kỹ năng tranh tụng của KSV thể hiện qua kỹ năng trình bày Bản cáo trạng, kỹ năng xét hỏi, đối đáp, tranh tụng, kỹ năng quan sát, lắng nghe, đặt câu hỏi, kỹ năng thuyết phục, phản bác, kỹ năng xử lý các tình huống, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng sử dụng các công cụ, phương tiện kỹ thuật hỗ trợ... Mức độ sử dụng linh hoạt các kỹ năng nêu trên cho phép KSV tự tin trong trình bày Bản cáo trạng, kiên quyết, chủ động bảo vệ quan điểm của VKS, đối đáp sắc bén với các quan điểm khác, khẳng định căn cứ pháp lý vững chắc của Bản luận tội.

Tranh tụng của Kiểm sát viên VKSND cấp huyện được khẳng định là có chất lượng khi diễn biến tại phiên tòa sát nhất với dự kiến của KSV. Thực chất, điều này phản ánh khả năng của KSV khi đánh giá sự kiện thực tế với dự liệu thực hành tranh tụng tại phiên tòa. Công tác chuẩn bị tốt quyết định chất lượng hoạt động tranh tụng của KSV tại phiên tòa. Vì thế, trước khi tiến hành hoạt động tranh tụng tại phiên tòa XXHS, Kiểm sát viên VKSND cấp huyện bao giờ cũng phải tiến hành công tác chuẩn bị để bảo đảm hoạt động tranh tụng diễn ra theo đúng quy định và bảo đảm KSV hoàn thành nhiệm vụ bảo vệ quan điểm của VKS. Kiểm sát viên phải nghiên cứu kỹ lưỡng, cẩn trọng toàn bộ hồ sơ vụ án và xây dựng Bản cáo trạng, làm cơ sở tiến hành tranh tụng tại phiên tòa. Đối với việc nghiên cứu hồ sơ vụ án: Kiểm sát viên phải nắm vững toàn bộ nội dung vụ án, đặc biệt lưu ý các vấn đề: Cấu thành tội phạm, cơ sở pháp lý truy cứu trách nhiệm hình sự, chứng cứ gỡ tội, buộc tội, tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Đối với việc chuẩn bị tài liệu trước khi mở phiên tòa: Kiểm sát viên phải chuẩn bị đầy đủ các loại tài liệu,

71

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 220 trang tài liệu này.


bao gồm những tài liệu có liên quan đến việc buộc tội và tài liệu liên quan tới việc gỡ tội của bị cáo; tài liệu phục vụ cho việc chứng minh quan điểm của VKS đối với hành vi phạm tội của bị cáo; đề cương thẩm vấn và tham gia xét hỏi; cáo trạng. Trong đó, đề cương thẩm vấn phải được chuẩn bị chu đáo, rõ ràng, khoa học, nêu bật được mục đích, ý nghĩa của việc thẩm vấn phục vụ cho việc bảo vệ quan điểm của VKS và làm rõ sự thật khách quan của vụ án. Cáo trạng được viết theo đúng mẫu, bảo đảm chặt chẽ, logic, khoa học. Hồ sơ kiểm sát được lập theo đúng quy định của ngành KSND. Trước khi tham gia phiên tòa, KSV còn phải dự liệu trước những tình huống có thể xảy ra để chủ động trong mọi tình huống. Tình huống dự liệu cần đề phòng cả trường hợp có thể phải thay đổi tội danh, khung hình phạt nhẹ hơn hoặc rút một phần hay toàn bộ quyết định truy tố. Việc chuẩn bị của KSV càng chu đáo, cụ thể, tỉ mỉ càng bảo đảm sự chủ động của KSV trong tranh tụng tại phiên tòa. Trong quá trình tranh tụng tại phiên tòa XXHS, Kiểm sát viên bám sát các nội dung đã chuẩn bị, quan sát, theo dõi, điều chỉnh hành vi phù hợp với diễn biến của phiên tòa. Mức độ điều chỉnh các kế hoạch, dự liệu của KSV càng ít thì càng phản ánh chất lượng tranh tụng cao của KSV; đem lại sự tự tin, quyết đoán và chủ động của KSV trong tranh tụng.

Chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân cấp huyện tại phiên tòa xét xử hình sự theo yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay - 10

Chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên VKSND cấp huyện trong tranh tụng tại phiên tòa XXHS còn được phản ánh qua việc KSV thực hiện đúng quy tắc ứng xử tại phiên tòa. Viện Kiểm sát nhân dân tối cao đã ban hành Quyết định số 46/QĐ- VKSTC ngày 20/02/2017 về quy tắc ứng xử của KSV khi thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp tại phiên tòa, phiên họp của Tòa án. Trong đó, có những yêu cầu cụ thể đòi hỏi mọi KSV phải thực hiện. Đó là các quy định “về việc KSV phải làm, không được làm, cách xưng hô, tác phong, thái độ và các biểu hiện khác mà KSV phải thực hiện, phải tuân theo khi thực hiện nhiệm vụ, khi giao tiếp với người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng và những người khác tham dự phiên tòa, phiên họp của Tòa án” [132].

Trong tranh tụng tại phiên tòa XXHS, KSV phải chú ý những vấn đề:

Những việc KSV phải làm: Về thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của VKS, KSV; có mặt trước thời điểm mở phiên tòa; sử dụng trang phục ngành; thực hiện

72


nội quy phiên tòa, các yêu cầu, đề nghị của Chủ tọa phiên tòa; cử chỉ hành động, lời nói, tư thế, tác phong, thái độ, biểu cảm chuẩn mực, thể hiện hình ảnh người KSV “Công minh, chính trực, khách quan, thận trọng, khiêm tốn”.

Những việc KSV không được làm: Sử dụng rượu, bia, chất kích thích khác khi thực hiện nhiệm vụ tại phiên tòa hoặc trong khoảng thời gian 12 giờ trước khi tham gia phiên tòa; phân biệt đối xử về dân tộc, tôn giáo, tín ngưỡng, chủng tộc, thành phần, địa vị xã hội, giới tính của người tham gia tố tụng, người tham dự phiên tòa; hành động chỉ trích, miệt thị, coi thường, xúc phạm danh dự, nhân phẩm người tranh tụng với KSV, người phản đối quan điểm, ý kiến của VKS, KSV; hành vi vượt quá chức trách, nhiệm vụ của KSV tại phiên tòa….

Về cách xưng hô của KSV (nhất là xưng hô với người tham gia tố tụng là bị cáo, bị hại, luật sư); về thái độ ứng xử của KSV (tư thế đứng, ngồi, đặt mũ, cử chỉ, hành động, lời nói, biểu cảm rõ ràng, dứt khoát, lịch sự, đúng mực); về tiếng nói (vừa đủ nghe, không quá nhanh, không quá chậm), ngôn ngữ (chuẩn xác, không nói ngọng, không nói lắp), về thái độ lắng nghe, tôn trọng ý kiến của người khác… Các nội dung trên vừa thể hiện vai trò, vị thế của KSV; đồng thời, phản ánh sự tôn trọng của KSV với các chủ thể tranh tụng khác, tạo nên văn hóa tranh tụng tại phiên tòa.

+ Sự đồng thuận của HĐXX với quan điểm của VKS (bao gồm cả quan điểm luận tội hoặc sự thay đổi quyết định của VKS tại phiên tòa)

Viện Kiểm sát truy tố bị cáo trước tòa nên việc chứng minh và bảo vệ quan điểm buộc tội của VKS là trách nhiệm của KSV. Kiểm sát viên phải làm tròn trách nhiệm trong việc trình bày cáo trạng, xét hỏi, tranh luận, đối đáp và luận tội. Bản luận tội với quan điểm buộc tội và yêu cầu bảo vệ được quan điểm này trước tòa án, sau khi tranh tụng với bị cáo, người bào chữa cho bị cáo là nhiệm vụ quan trọng nhất của KSV tại phiên tòa. Luận tội của KSV phải căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được kiểm tra tại phiên tòa và ý kiến của những người tham gia tố tụng như bị cáo, người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự và những người tham gia tố tụng khác. Kiểm sát viên phải sử dụng chứng cứ và ý kiến có được tại phiên tòa để thực hiện việc luận tội. Vì thế, KSV phải tập trung theo dõi, nắm chắc diễn biến phiên tòa. Điều này tránh việc KSV dựa hoàn toàn vào Bản luận tội đã chuẩn bị sẵn, không có sự điều chỉnh phù hợp với diễn biến phiên tòa cũng như những tình tiết

73


mới xuất hiện tại phiên tòa. Việc đối đáp, tranh luận đối với các ý kiến của bên tranh tụng khác là những vấn đề then chốt, khẳng định sự khách quan, rõ ràng, có căn cứ của việc buộc tội.

Tranh tụng của KSV tại phiên tòa XXST hình sự chỉ thực sự thành công khi đạt được sự đồng thuận của HĐXX với quan điểm luận tội của VKS trong việc ban hành bản án. Điều đó phản ánh KSV đã bảo vệ được quan điểm của VKS trong Bản cáo trạng hoặc sự thay đổi quan điểm của VKS tại phiên tòa phù hợp với sự đánh giá chứng cứ, làm rõ sự thật khách quan của vụ án; được HĐXX xem xét, ban hành bản án nhất trí với quan điểm của VKS. Để làm được điều này, ngoài những chứng cứ, lập luận đã nêu trong Bản cáo trạng thì việc tiến hành tranh tụng của KSV tại phiên tòa có ý nghĩa quan trọng. Quan điểm của KSV tại phiên tòa phải hợp pháp, logic, thuyết phục; chứng minh được tội phạm, làm sáng tỏ đầy đủ các tình tiết của vụ án, làm thỏa mãn yêu cầu, đòi hỏi của các bên khi tranh tụng, khiến các bên “tâm phục, khẩu phục”; qua đó, khẳng định Bản cáo trạng là hoàn toàn đúng đắn hoặc nếu có thay đổi nội dung (thay đổi tội danh, khung hình phạt nhẹ hơn, rút toàn bộ hoặc một phần quyết định truy tố) là có cơ sở rõ ràng. Ngoài ra, khi HĐXX không đưa ra yêu cầu, đề nghị VKS phải cung cấp các chứng cứ cũng phản ánh mức độ đồng thuận của HĐXX đối với Bản cáo trạng của VKS. Điều này phản ánh sự chuẩn bị chu đáo, đủ căn cứ của VKS, qua đó phản ánh chất lượng tranh tụng của KSV tại phiên tòa.

Bên cạnh đó, sự đồng thuận của HĐXX đối với quan điểm buộc tội của VKS bao hàm cả trường hợp không có bị cáo nào bị HĐXX tuyên không phạm tội (tương ứng với chỉ tiêu 0% HĐXX tuyên bị cáo không phạm tội). Đây là một trong các chỉ tiêu cơ bản đánh giá kết quả công tác nghiệp vụ trong ngành KSND đã được chính thức quy định trong các văn bản của ngành KSND [124; 133; 146]. Đảm bảo chỉ tiêu này nhằm khẳng định mục tiêu cao nhất của hoạt động tranh tụng của KSV nói riêng và các hoạt động tố tụng của VKSND là không được để xảy ra oan, sai.

Sự đồng thuận của HĐXX đối với quan điểm buộc tội của VKS còn phản ánh uy tín, vị thế của VKS và KSV tại phiên tòa. Theo quy định, hoạt động xét xử tại phiên tòa được tiến hành công khai (trừ một số trường hợp pháp luật quy định xử

74


kín). Vì thế, ngoài HĐXX, Kiểm sát viên, những người tham gia tố tụng còn có thể có nhiều người khác tham dự phiên tòa. Việc tham dự phiên tòa của nhân dân thể hiện sự quan tâm đối với những vụ án nhất định; nhưng quan trọng hơn là phản ánh vị thế của nhân dân - chủ thể quyền lực thực sự. Chính vì thế, những diễn biến tại phiên tòa luôn được chú ý. Nếu KSV thực hành tốt việc tranh tụng tại phiên tòa thì sẽ là một cơ hội tốt để phổ biến, giáo dục pháp luật cho nhân dân; cảm hóa người phạm tội; phòng ngừa tội phạm, vi phạm pháp luật khác; củng cố niềm tin của nhân dân vào cơ quan bảo vệ pháp luật và nâng cao ý thức pháp luật cho nhân dân. Ngược lại, nếu KSV không thể hiện tốt vai trò trong tranh tụng sẽ để lại dư luận xấu của cá nhân KSV, ảnh hưởng tới uy tín của VKS.

2.2.2. Các yếu tố bảo đảm chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân cấp huyện tại phiên tòa xét xử hình sự theo yêu cầu cải cách tư pháp

2.2.2.1. Khái niệm bảo đảm chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân cấp huyện tại phiên tòa xét xử hình sự theo yêu cầu cải cách tư pháp

Thuật ngữ “bảo đảm” (đảm bảo) là “Tạo điều kiện để chắc chắn giữ gìn được, hoặc thực hiện được, hoặc có được những gì cần thiết” [107, tr.52]. Thông thường, thuật ngữ này được dùng khi đề cập đến việc hiện thực hóa một nội dung, vấn đề, hoạt động nào đó nhằm hướng tới hiệu quả, chất lượng cao nhất. Đối với hoạt động tranh tụng của Kiểm sát viên VKSND cấp huyện tại phiên tòa XXHS, việc bảo đảm chất lượng vừa là yêu cầu, đòi hỏi của công cuộc CCTP vừa là nhu cầu tự thân của VKSND, Kiểm sát viên.

Có thể khẳng định: Bảo đảm chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên VKSND cấp huyện tại phiên tòa XXHS là tạo điều kiện để Kiểm sát viên VKSND cấp huyện chắc chắn thực hiện được hoạt động tranh tụng tại phiên tòa XXST hình sự có chất lượng. Do vậy, bảo đảm chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên VKSND cấp huyện tại phiên tòa XXHS gắn liền với những biện pháp, hoạt động để tạo ra những điều kiện, qua đó đạt được các tiêu chí đánh giá đã xác định.

75


2.2.2.2. Nội dung các yếu tố bảo đảm chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân cấp huyện tại phiên tòa xét xử hình sự theo yêu cầu cải cách tư pháp

Từ khái niệm bảo đảm chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên VKSND cấp huyện tại phiên tòa XXHS, chúng tôi cho rằng có các yếu tố bảo đảm chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên VKSND cấp huyện tại phiên tòa XXHS như sau:

Thứ nhất, bảo đảm về chính trị

Bộ máy nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam được hợp thành từ nhiều cơ quan với vị trí, tính chất, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn khác nhau. Trong tổ chức và hoạt động, bộ máy nhà nước nói chung và các cơ quan trong bộ máy nhà nước nói riêng phải tuân thủ những nguyên tắc chung, đã được quy định trong Hiến pháp, bao gồm: Nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; nguyên tắc Đảng lãnh đạo các cơ quan nhà nước; nguyên tắc bình đẳng, đoàn kết giữa các dân tộc; nguyên tắc tập trung dân chủ; nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Trong đó, nguyên tắc có vai trò đặc biệt quan trọng, khẳng định tính đặc thù của bộ máy nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là nguyên tắc Đảng lãnh đạo các cơ quan nhà nước. Trong công cuộc CCTP, sự lãnh đạo của Đảng có vai trò quyết định, vạch ra chủ trương, đường lối và định hướng cho quá trình xây dựng, hoàn thiện, tổ chức thực hiện pháp luật về CCTP trên thực tế. Nội dung trọng tâm, khâu đột phá để nâng cao chất lượng CCTP đã được khẳng định là vấn đề chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa xét xử. Điều này liên quan mật thiết tới tranh tụng của các chủ thể tiến hành tố tụng, tham gia tố tụng tại phiên tòa; đặc biệt là tranh tụng giữa Kiểm sát viên VKSND cấp huyện với các chủ thể khác tại phiên tòa XXHS. Do đó, điều kiện bảo đảm quan trọng, có tính chất vạch đường lối, quan điểm chỉ đạo bảo đảm chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên VKSND cấp huyện tại phiên tòa XXHS theo yêu cầu CCTP là sự bảo đảm về chính trị.

Bảo đảm về chính trị liên quan đến nội dung CCTP nói chung, chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên VKSND cấp huyện tại phiên tòa XXHS nói riêng thể hiện ở những phương diện cơ bản sau: Đảng Cộng sản Việt Nam xác định chủ

76


trương, định hướng lớn về CCTP phù hợp với điều kiện xây dựng, hoàn thiện nhà nước pháp quyền trong tình hình mới; lãnh đạo quá trình tổ chức thực hiện các nội dung CCTP thông qua việc định hướng hoàn thiện thể chế; kiểm tra, giám sát; khen thưởng, kỷ luật; đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; phát huy vai trò tiên phong, gương mẫu của đảng viên, tổ chức đảng; tuyên truyền, phổ biến các chủ trương, nghị quyết của Đảng về CCTP. Vì thế, bảo đảm về chính trị được thể hiện qua hệ thống các văn kiện của Đảng về CCTP (trong đó có định hướng đổi mới tổ chức, hoạt động của hệ thống VKSND); kết quả hoạt động lãnh đạo của Đảng đối với công tác tổ chức thực hiện chủ trương, đường lối, quan điểm của Đảng về CCTP trên thực tế của các cơ quan trong bộ máy nhà nước (trong đó có hệ thống cơ quan kiểm sát). Trên phương diện lãnh đạo triển khai các chủ trương, đường lối về CCTP, các cấp ủy Đảng trong ngành KSND phải chú trọng kiện toàn, nâng cao chất lượng hoạt động của Ban Chỉ đạo CCTP; lãnh đạo, chỉ đạo có hiệu quả thực hiện nhiệm vụ CCTP, đặc biệt là thực hiện Kết luận số 84-KL/TW của Bộ Chính trị về tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa IX) về Chiến lược CCTP đến năm 2020.

Thứ hai, bảo đảm về pháp luật

Bảo đảm về pháp luật là bảo đảm về cơ sở pháp lý cho hoạt động tranh tụng của Kiểm sát viên VKSND cấp huyện tại phiên tòa XXHS. Yếu tố này bao gồm: Hệ thống các quy định pháp luật đầy đủ, rõ ràng, có tính khả thi, bảo đảm các chủ thể, nhất là KSV có căn cứ pháp lý vững chắc để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình.

Hiện nay, các quy định pháp luật về tranh tụng, được nêu trong Hiến pháp năm 2013, các Luật và văn bản dưới luật. Trong đó, Hiến pháp năm 2013 đã khẳng định “nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm”. Đây là bảo đảm pháp lý rất quan trọng, thừa nhận vai trò và yêu cầu thực hiện nguyên tắc này là tất yếu. Những quy định của Hiến pháp định hướng cho việc hoàn thiện các quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan, trong đó có Bộ luật TTHS năm 2015. Bên cạnh đó, còn có các quy định dưới luật, nhằm cụ thể hóa luật, được nhiều chủ thể ban hành, trong đó có các quy định hướng dẫn của ngành KSND, Tòa án. Hệ thống pháp luật hoàn thiện, khả thi (toàn diện, đồng bộ, phù hợp, bảo đảm kỹ thuật

Xem tất cả 220 trang.

Ngày đăng: 26/05/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí