Đặc Điểm Doanh Nghiệp Và Việc Thực Hiện Chế Độ Chính Sách Của Doanh Nghiệp.

phải tiết kiệm mới đủ trang trải cho cuộc sống thường ngày nên không có tích lũy dẫn đến việc sở hữu riêng một căn hộ là điều xa xỉ đối với họ. “Có nhà riêng cho mình và con ai mà không muốn, nhưng lương tháng chưa đến 7 triệu, chi tiêu trong một tháng nếu không bị nợ là may lắm rồi làm gì có dư để mà mua đất, mua nhà” H, 30 tuổi công ty CT

Thực tế kết quả khảo sát, biểu đồ 12 cho thấy có sự khác biệt đáng kể giữa các nhóm thu nhập và tình trạng sở hữu nhà ở. Chẳng hạn, 36,4% nhóm thu nhập trên 10 triệu /tháng sở hữu nhà ở riêng thì hai nhóm còn lại có thu nhập thấp hơn, tỷ lệ sở hữu nhà ở chỉ bằng một nửa so với nhóm thu nhập cao và những người có sở hữu nhà riêng này cũng là những người dân của địa phương còn nếu không phải là người địa phương thì cũng là những người có tay nghề cao và thâm niên công tác lâu năm. Phỏng vấn sâu mẹ đơn thân MN, 35 tuổi, công ty CT “trước kia ở quê mình có nghề may rồi, đến Bình Bương làm rồi lấy chồng ở đây luôn, ông xã bị tai nạn mất cũng mấy năm rồi, giờ ở chung với ba má lo cho ba, má chồng luôn. Mình hiện đang làm quản đốc của một phân xưởng, thu nhập cũng được 12 triệu, phải lo cho cả nhà ngó vậy cũng vừa đủ hà ”.

Nhóm tuổi và diện tích nhà ở

Kết quả khảo sát định lượng cho thấy có sự chênh lệch không đáng kể giữa các nhóm tuổi của bà mẹ đơn thân trong việc sử dụng diện tích phòng ở, và diện tích dưới 14m2 là sự lựa chọn chung của đa số bà mẹ đơn thân. Để minh chứng thêm chúng tôi phỏng vấn sâu một số bà mẹ đơn thân cũng nhận được kết quả tương tự.

Biểu 16: Nhóm tuổi và diện tích nhà ở của bà mẹ đơn thân (Đơn vị %)



Nguồn Kết quả khảo sát của đề tài tại Dĩ An năm 2018 MT 46 tuổi công nhân 1


Nguồn: Kết quả khảo sát của đề tài tại Dĩ An năm 2018

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 196 trang tài liệu này.


MT, 46 tuổi công nhân công ty ASM “tuy bây giờ nhà trọ nhiều, nhưng không phải nhiều mà được giá rẻ, mình cũng muốn ở rộng rãi, thoáng mát nhưng giá một tháng tính luôn điện nước hơn triệu lận, thôi cứ ở vậy, riết rồi cũng quen”; H, 32 tuổi công nhân công ty CT “mình trọ ở đây lâu rồi, phòng trọ này nhỏ lại nóng nữa, ở hướng tây mà, nhưng có hai mẹ con ở riết cũng quen, lại sát bên chỗ làm cũng tiện”; T, 22 tuổi công ty LP “em cũng chuyển chỗ ở mấy lần rồi, chỗ nào cũng vậy thôi, ở đây giá cũng thấp với lại ở đây họ cũng đã hiểu hoàn cảnh của mình rồi, giờ mà chuyển đi chỗ khác cũng ngại lắm”;

Học vấn và diện tích nhà ở

Mối liên hệ giữa học vấn của bà mẹ đơn thân và diện tích nhà ở, những bà mẹ đơn thân có học vấn tiểu học đang sống trong những căn phòng có diện tích dưới 14m2 cao nhất, nhóm bà mẹ đơn thân có học vân THCS và nhóm bà mẹ đơn thân có học vân THPT trở lên đang ở căn phòng có diện tích rộng hơn. Cũng như ở trên trình độ học vấn thấp sẽ có việc làm ở những vị trí có

mức lương không cao nên việc được hưởng thụ mọi mặt của cuộc sống cũng hạn chế trong đó có nhu cầu về nhà ở.

Biểu 17: Học vấn và diện tích nhà ở của bà mẹ đơn thân (Đơn vị %)


Nguồn Kết quả khảo sát của đề tài tại Dĩ An năm 2018 Trình độ chuyên môn 2


Nguồn: Kết quả khảo sát của đề tài tại Dĩ An năm 2018


Trình độ chuyên môn và diện tích nhà ở

Những bà mẹ đơn thân có trình độ chuyên môn trung cấp nghề, đại học có tỷ lệ sử dụng diện tích căn phòng rộng nhỉnh hơn so với các nhóm chưa qua đào tạo nghề. Thông tin phỏng vấn sâu xác nhận thêm thực tế này: “mình làm quản lý, lương cũng tương đối, ở nhà trọ được 25m2 và một gác lửng 10m, thuộc khu nhà trọ văn hóa kiểu mẫu của phường, giá cũng tương đối lại được thoáng mát, sạch sẽ, khu vực an ninh nên cũng yên tâm vì mình có con nhỏ và thường làm về trễ”, M 34 tuổi, công ty YZK.

Biểu 18: Trình độ chuyên môn và diện tích nhà ở của bà mẹ đơn thân (Đơn vị %)


Nguồn gốc gia đình và diện tích nhà ở Đề tài cũng muốn đưa yếu tố về 3


Nguồn gốc gia đình và diện tích nhà ở

Đề tài cũng muốn đưa yếu tố về nguồn gốc gia đình của bà mạ đơn thân vào để phân tích xem có sự khác biệt gì không. Kết quả cho thấy có sự khác biệt rõ rệt giữa nhóm bà mẹ đơn thân là người địa phương và nhóm bà mẹ đơn thân là người ngoài địa phương về sử dụng diện tích ở. Cụ thể nhóm bà mẹ đơn thân là người địa phương có diện tích ở rộng hơn so với diện tích ở của bà mẹ đơn thân là người ngoài địa phương. Điều này cũng dễ hiểu vì người địa phương có điều kiện kinh tế tốt hơn, họ nhận được sự hỗ trợ nhiều hơn từ gia đình và không phải tiết kiệm gửi tiền về quê còn người ngoài địa phương thì ngược lại. L, 41 tuổi quê Dĩ An “trước chị cũng có nhà riêng vậy, từ hồi anh chị thôi nhau đến giờ chị đưa con về ở chung nhà với ba mẹ chị, nhà ông bà cũng rộng rãi, con còn được ông bà chăm mình cũng yên tâm đi làm”; về diện tích M, 33 tuổi quê Bến Tre cho biết “phòng trọ chị thuê ở tí xíu hà, chị không biết được bao nhiêu mét nữa nhưng ngoài cái gác tí xíu ở trên còn ở dưới chỉ để chiếc xe, cái nệm là hết chỗ rồi, mỗi lần muốn nấu ăn là phải đem bếp ra ngoài hiên nấu” hỏi vì sao không chọn phòng ở rộng rãi hơn “vì còn phải gửi tiền về quê cho ba chị lo cho đứa con lớn (bị bệnh down) nên ở đây

tuy có mẹ lên ở phụ chăm cháu mình cũng không dám chọn ở phòng trọ rộng vì còn phải tiết kiệm, được đồng nào đỡ đồng đó chứ”.


Biểu 19: nguồn gốc gia đình và diện tích nhà ở của bà mẹ đơn thân (Đơn vị %)



Nơi làm việc và diện tích nhà ở Đề tài cũng muốn xem nơi làm việc có ảnh 4


Nơi làm việc và diện tích nhà ở

Đề tài cũng muốn xem nơi làm việc có ảnh hưởng gì về diện tích nhà ở của bà mẹ đơn thân hay không. Vì giữa hai môi trường làm việc một bên là vốn đầu tư trong nước và một bên là vốn đầu tư nước ngoài (FDI) cũng có sự khác nhau. Qua khảo sát, tỷ lệ nhóm bà mẹ đang làm việc cho công ty có vốn FDI đang sống trong những căn phòng có diện tích rộng cao hơn nhiều so với nhóm bà mẹ đơn thân đang làm việc cho công ty có vốn trong nước. Vì sao có sự khác biệt này, lý do ở các công ty có vốn FDI thường có quy mô sản xuất lớn hơn, cường độ làm việc, yêu cầu kỹ thuật cũng như nhu cầu về lao động thường cao hơn nên để thu hút người lao động thì họ buộc phải trả lương cao hơn.

Biểu 20: nơi làm việc và diện tích nhà ở của bà mẹ đơn thân (Đơn vị %)



Nguồn Kết quả khảo sát của đề tài tại Dĩ An năm 2018 Số năm làm việc và 5


Nguồn: Kết quả khảo sát của đề tài tại Dĩ An năm 2018 Số năm làm việc và diện tích phòng ở

Mối liên hệ giữa số năm làm việc và diện tích căn phòng đang ở của các nhóm bà mẹ đơn thân là công nhân. Cũng không có mấy khác biệt, dù mới đi làm hay đã đi làm nhiều năm thì họ vẫn lựa chọn những căn phòng có diện tích nhỏ để ở, điều này cho thấy sự khó khăn chung trong cuộc sống của họ về kinh tế.

Biểu 21: số năm làm việc và diện tích phòng ở của bà mẹ đơn thân (Đơn vị %)



Ở các KCN tỉnh Bình Dương hầu hết các nữ công nhân đều đến từ vùng nông 6

Ở các KCN tỉnh Bình Dương, hầu hết các nữ công nhân đều đến từ vùng nông thôn, đã tạo nên sức ép lớn về nhà ở. Tỷ lệ công nhân được giải quyết nhà ở cũng chỉ đạt 10%. Hầu như những người lao động đều phải ở trong những phòng trọ sơ sài, chật chội, tồi tàn, không có tivi, đài hay sách báo và thường thuê gần khu vực nhà máy, xí nghiệp để thuận lợi cho công việc của mình.

Các dẫn chứng và phân tích vừa cho thấy các yếu tố chi phối sở hữu và diện tích nhà ở của bà mẹ đơn thân là công nhân ở Bình Dương hiện nay, theo đó những đặc điểm cá nhân (tuổi, trình độ chuyên môn, hợp đồng lao động, nơi làm việc, …) và hoàn cảnh gia đình (người địa phường và người nhập cư từ nơi khác đến) đều có liên quan rất nhiều đến việc sở hữu nhà ở và diện tích của căn phòng mà bà mẹ đơn thân và con đang sinh sống cho thấy một bức tranh chung đó là sự khó khăn về sở hữu nhà ở và điều này cần có sự hỗ trợ từ nhà nước đến doanh nghiệp để họ có được một mức sống cao hơn phù hợp hơn với sự phát triển chung của xã hội.

4.3 Đặc điểm doanh nghiệp và việc thực hiện chế độ chính sách của doanh nghiệp.

4.3.1 Đặc điểm doanh nghiệp

Tỉnh Bình Dương là một trong những địa phương dẫn đầu cả nước về tốc độ công nghiệp hóa, hiện đại hóa với hơn 30 khu công nghiệp có kết cấu hạ tầng hoàn chỉnh, đồng bộ, tỉnh Bình Dương đã tiến hành triển khai chương trình đổi mới thu hút đầu tư giai đoạn 2016-2020 với mục tiêu tập trung thu hút đầu tư vào các đối tác có tiềm lực kinh tế mạnh, các tập đoàn kinh tế lớn trên thế giới, tăng cường kêu gọi, thu hút đầu tư FDI vào các lĩnh vực công nghệ cao, giá trị gia tăng cao, ít thâm dụng lao động, thân thiện với môi trường. và sự phát triển mạnh mẽ của tỉnh trong thời gian qua có sự đóng góp rất lớn của của các doanh nghiệp thể hiện qua con số các dự án FDI đầu tư tại Bình Dương hiện nay lên 3.639 dự án với tổng vốn đăng ký 33,76 tỷ USD. Tính riêng trong năm 2018, khu vực doanh nghiệp FDI đóng góp hơn

49,6% tổng vốn đầu tư toàn xã hội và chiếm gần 20% trong tổng thu ngân sách của tỉnh.

Ngoài việc các doanh nghiệp FDI tham gia thúc đẩy mạnh mẽ tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa tại Bình Dương thông qua việc chuyển giao, đổi mới công nghệ sản xuất; góp phần kết nối với doanh nghiệp đầu tư trong nước tạo điều kiện cho Bình Dương ngày càng phát triển kinh tế bền vững hơn. Bên cạnh đó, nguồn vốn FDI còn là một nguồn lực to lớn, tạo tiền đề cho tỉnh Bình Dương phát triển theo hướng văn minh, hiện đại; đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện và nâng cao; làm nền tảng cho việc triển khai các giải pháp cụ thể về phát triển công nghiệp gắn với xây dựng đô thị thông minh.

Những năm qua, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) tại các khu công nghiệp (KCN) trên địa bàn tỉnh đã chấp hành tốt chính sách pháp luật về BHXH, BHYT, BHTN, giúp người lao động yên tâm làm việc.

Việc đầu tư của các doanh nghiệp nước ngoài vào các khu công nghiệp ở Bình Dương góp phần cho sự tăng trưởng kinh tế, đồng thời tạo công ăn việc làm cho người lao động. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp trong nước cũng được nhà nước khuyến khích với nhiều chính sách đãi ngộ nhằm phát triển sản xuất, gia tăng chỉ số GDP cho Việt Nam.

Nguồn nhân công dồi dào và chi phí thấp là một trong những yếu tố thu hút đầu tư của các doanh nghiệp. Thế nhưng, đời sống của người lao động tại các doanh nghiệp vẫn chưa đảm bảo, ngoài các chế độ theo quy định của nhà nước như quy định mức lương tối thiểu vùng và tham gia các loại bảo hiểm cho người lao động thì đời sống của người lao động vẫn chưa được quan tâm đúng mức. Một số doanh nghiệp không thực hiện nghĩa vụ đóng các loại bảo hiểm cho công nhân. Có thể nói công nhân chưa được hưởng lợi nhiều so với thành quả kinh tế mà họ tạo ra và tùy vào từng cách thức quản lý của doanh nghiệp mà người lao động được hưởng các chế độ phúc lợi nhất định. Có những doanh nghiệp tìm cách để “lách luật” làm giảm đi các khoản chi phí hỗ

Xem tất cả 196 trang.

Ngày đăng: 13/01/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí