Giáo Dục Đại Học Và Giáo Dục Đại Học Công Lập


đề thứ hai, tác giả nêu các khó khăn bao gồm quy định về thu học phí của trường tự chủ tài chính không khác gì các trường khác; chưa có quy định về việc huy động vốn và vay vốn của các tổ chức tín dụng cho các hoạt động dịch vụ công để khuyến khích các đơn vị chủ động giải quyết việc thiếu phòng học, cơ sở vật chất; học phí và lệ phí thu được phải gửi kho bạc nhà nước, không được hưởng lãi suất v.v... Đối với nhóm vấn đề thứ ba, tác giả đề xuất cần tự chủ hơn nữa về hoạt động liên doanh, liên kết và hợp tác quốc tế; chi trả thu nhập cho người lao động; tự chủ sử dụng các nguồn lực tài chính, xác định mức thu nhập, lệ phí, thu phí dịch vụ và sử dụng tài sản.

- Phùng Xuân Nhạ và các cộng sự (2012) [47] nghiên cứu chính sách học phí trong bối cảnh đổi mới cơ chế tài chính, hướng tới nền GDĐH tiên tiến, tự chủ. Theo các tác giả, việc áp mức trần học phí theo quy định tại Nghị định 49/2010/NĐ- CP của Chính phủ tại các trường được giao cơ chế tự chủ về tài chính là chưa hợp lý. Các tác giả đề xuất, đối với các ngành nghề có khả năng xã hội hoá cao (ví dụ tài chính, ngân hàng, thương mại v.v…), nên xây dựng lộ trình cho phép các cơ sở đào tạo tự xác định mức học phí, đảm bảo tự cân đối kinh phí đào tạo. NSNN tiết kiệm được từ những ngành nghề này chuyển sang góp phần thực hiện cơ chế nhà nước đặt hàng đối với các ngành nghề đào tạo ít có khả năng xã hội hoá (ví dụ, khoa học cơ bản, nghệ thuật, điện hạt nhân, đào tạo giáo viên sư phạm v.v…), với mức giá đặt hàng được tính đúng, tính đủ chi phí đào tạo. Để thực hiện việc cải cách học phí và cơ chế cấp phát NSNN vừa nêu, các tác giả đề xuất thực hiện đồng thời hai giải pháp. Thứ nhất, là xây dựng và phê duyệt đề án tự chủ tài chính (trong đó có chính sách học phí) theo trường và thứ hai, là Nhà nước chủ động từng bước giao quyền tự chủ tài chính cao hơn cho toàn khối giáo dục (trong đó có quyền tự chủ về xác định mức học phí). Các đề xuất, giải pháp nêu trong báo cáo này là đúng đắn, tuy nhiên mới dừng lại ở mức độ định hướng. Cần tiếp tục nghiên cứu, cụ thể hoá các đề xuất, giải pháp này để có thể triển khai thực tế.

- Bài viết của Lâm Quang Thiệp (2004) [64] "Về xu hướng hội nhập GDĐH trên thế giới và những đổi mới của GDĐH Việt Nam" tại Hội thảo "Đổi mới GDĐH


Việt Nam - Hội nhập và thách thức", Hà Nội 3/2004 và "Xu thế toàn cầu hoá và thương mại hoá GDĐH trên thế giới và việc ứng phó của chúng ta" tại Hội thảo "GDĐH và việc gia nhập WTO" Viện chiến lược và Chương trình giáo dục, 11/2005. Bài viết phân tích các xu thế phát triển mới trong GDĐH trên thế giới, bàn về những cơ hội và thách thức đối với GDĐH Việt Nam. Sự cần thiết và con đường thực hiện đổi mới cũng như những khuyến nghị về chính sách đổi mới GDĐH Việt Nam (trong đó có đổi mới chính sách quản lý tài chính) trong bối cảnh mới.

Thời gian gần đây, có nhiều công trình nghiên cứu về nội dung quản lý tài chính trong lĩnh vực giáo dục. "Hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính đối với các trường phổ thông Hà Nội" của tác giả Nguyễn Duy Phong [57] đi tìm giải pháp về quản lý tài chính của các trường phổ thông. Đề tài mà nghiên cứu sinh đang nghiên cứu cũng dành cho khối các trường học, tuy nhiên, chúng ta không thể mang những cách thức quản lý đối với trường phổ thông áp dụng cho trường ĐH được. Hơn nữa, tác giả Phong chỉ tập trung phân tích cơ chế quản lý tác động đến hiệu quả quản lý của các trường phổ thông trên một địa bàn.

Cũng gần với nội dung nghiên cứu sinh đang tìm hiểu, năm 2008, luận án của tác giả Nguyễn Anh Thái - Học viện tài chính đã được bảo vệ với đề tài "Hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính đối với các trường ĐH ở Việt Nam" [61]. Nếu như, công trình của tác giả Nguyễn Duy Phong, tác giả đề xuất giải pháp quản lý tài chính cho khối các trường phổ thông, thì tác giả Nguyễn Anh Thái tập trung phân tích nội dung cơ chế chính sách để quản lý tài chính đối với các trường ĐH nói chung. Giải pháp hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính dành cho các trường ĐH mà tác giả Nguyễn Anh Thái mang tính hàn lâm, nặng về lý thuyết. Tác giả đã dừng lại ở việc nêu vấn đề: tạo nguồn tài chính đa dạng cho đào tạo, xây dựng cơ chế kiểm soát, chính sách học phí, học bổng, hoàn thiện mô hình tổ chức bộ máy quản lý đối với các trường ĐH, mà chưa luận giải sâu sắc.

Rất khó khăn để liệt kê đầy đủ các công trình thuộc nhóm nghiên cứu về chính sách công, chính sách tài chính, bởi khối lượng khá đồ sộ và phạm vi nghiên cứu rộng. Nhưng không thể không kể đến một số công trình tiêu biểu liên quan đến luận


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 191 trang tài liệu này.

án của các tác giả như: Đề tài cấp bộ năm 2005 của tác giả PGS.TS Vũ Duy Hào và các cộng sự - khoa Ngân hàng Tài chính - Trường ĐH Kinh tế quốc dân "Hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính đối với các trường ĐHCL khối kinh tế ở Việt Nam" [32]. Nội dung nghiên cứu của tác giả được xác định là cơ chế quản lý tài chính và chỉ nghiên cứu trong phạm vi các trường ĐHCL khối kinh tế. Trên cơ sở đó nhóm tác giả đã khảo sát, phân tích thực trạng cơ chế quản lý tài chính đối với các trường ĐH khối kinh tế ở Việt Nam hiện nay, từ đó rút ra những kết quả đạt được cũng như hạn chế và nguyên nhân trong cơ chế quản lý tài chính hiện hành. Đồng thời, nhóm tác giả đã đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính đối với các trường ĐHCL khối kinh tế ở Việt Nam. Một trong số các giải pháp tác giả đề ra, tác giả cũng đề cập đến "nhà nước cần xem xét việc thực hiện thí điểm cơ chế tự chủ tài chính đối với một số trường lớn, có uy tín". Tuy nhiên, vào thời điểm năm 2005, mọi điều kiện cơ chế, chính sách Nhà nước đưa ra ở mức độ hạn chế nên tác giả mới chỉ đưa ra là "thực hiện thí điểm" cơ chế tự chủ.

Một công trình nghiên cứu khác, nghiên cứu mang tính hệ thống, khá đầy đủ và "gần" với lĩnh vực nghiên cứu của tác giả đang nghiên cứu phải kể đến đề tài cấp bộ năm 2007 của nhóm tác giả do GS.TS Mai Ngọc Cường - chủ nhiệm đề tài - trường ĐH Kinh tế quốc dân "Điều tra thực trạng và khuyến nghị giải pháp thực hiện tự chủ về tài chính ở các trường ĐH Việt Nam" [24]. Tác giả đã tập trung đánh giá thực trạng các điều kiện tự chủ tài chính của các trường ĐHCL hiện nay; chỉ ra những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân của các trường ĐHCL; đề xuất phương hướng và giải pháp để tiếp tục xây dựng và hoàn thiện các điều kiện tự chủ tài chính trong các trường công lập. Đây là một công trình đồ sộ về số lượng và nghiên cứu khá toàn diện vấn đề liên quan đến tự chủ tài chính. Tuy nhiên, theo tác giả tự chủ tài chính là một trong những phương cách để tăng cường quản lý tài chính và chia sẻ gánh nặng với Nhà nước về trách nhiệm của các đối tượng khác trong xã hội về phát triển sự nghiệp giáo dục. Song một trong những điểm cơ bản để có thể tự chủ được thì cần phải làm rõ quản lý tài chính như thế nào, xây dựng quy trình quản lý ra sao, tiêu chí để đánh giá một trường ĐHCL có khả năng tự chủ hay không thì trong đề tài tác giả không đề cập tới.

Cơ chế quản lý tài chính đối với giáo dục đại học công lập ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập và phát triển - 4


Như vậy, tác giả đã tổng hợp được nhiều công trình được công bố trong và ngoài nước đều tập trung phân tích và tìm ra cách thức để nâng cao chất lượng quản lý tài chính nói chung và GDDH nói riêng. Trong đó, cũng có một số công trình trên bàn đến vấn đề quản lý tài chính trong đơn vị sự nghiệp có thu, song đi sâu vào nghiên cứu quản lý tài chính riêng biệt đối với các trường công lập, đặc biệt trong cơ chế tự chủ tài chính, cần thiết lập được điều kiện tự chủ tài chính các trường ĐHCL, hay xây dựng một hệ thống chỉ tiêu đánh giá quản lý tài chính các trường ĐHCL còn nhiều hạn chế.

1.3. Khoảng trống nghiên cứu

Có thể thấy đã có nhiều nghiên cứu đề cập đến những nội dung liên quan tới lĩnh vực nghiên cứu của luận án nhưng vẫn còn nhiều vấn đề chưa được nghiên cứu cả trên phương diện lý thuyết cũng như thực tiễn. Cụ thể,

- GDĐHCL đang trong quá trình đổi mới để thực hiện nghị quyết số 29/NQ/Trung ương (2013) của Đảng về Đổi mới căn bản, toàn diện về giáo dục đào tạo. Nghị định 16/NĐ/CP (2015) về Cơ chế tự chủ đối với các đơn vị sự nghiệp công lập, trong đó có ĐHCL, đồng thời thực hiện lộ trình hội nhập quốc tế về GDĐH. Do đó cần có một cơ chế quản lí tài chính được đổi mới căn bản để đáp ứng quá trình đổi mới giáo dục đại học công lập trong bối cảnh hội nhập quốc tế.

- Có thể thấy, tuy có tương đối nhiều công trình nghiên cứu nhưng cách tiếp cận chủ yếu mang tính tác nghiệp ở từng trường hoặc khối trường trên cơ sở thực hiện quản lí tài chính ở góc độ nghiệp vụ quản lý tài chính theo thu chi của các trường đại học công lập, còn bản thân cơ chế quản lý tài chính của Nhà nước chưa được nghiên cứu tổng thể phục vụ cho quản lý thực tiễn một cách đồng bộ, nhất quán. Theo đó, tài chính của các trường ĐHCL với nhiều nguồn thu, trong đó có thu từ NSNN, thu từ nguồn tài chính được tự chủ và các nguồn thu khác. Việc phân định rõ trách nhiệm, cơ chế quản lý tài chính của Nhà nước ở cấp vĩ mô với từng loại và quản lí từng loại nguồn tài chính đó đang đặt ra nhiều vấn đề cần được nghiên cứu làm rõ.

- Việc xác định cơ sở, căn cứ, nguyên tắc để phân bổ nguồn tài chính từ NSNN cho từng trường ĐH hoặc theo nhóm trường ĐH chưa được làm rõ, việc


phân bổ ngân sách giáo dục nói chung và ngân sách GDĐHCL nói riêng còn rất bất hợp lý, dẫn tới hiệu quả thấp.

Trong bối cảnh hội nhập và phát triển của nền kinh tế Việt Nam như hiện nay, nhu cầu về nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực có chất lượng cao ngày càng quan trọng, cần thiết để nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế. Điểm cốt lõi của sự yếu kém trong hệ thống giáo dục là vấn đề về cơ chế quản lý tài chính. Như vậy, việc nghiên cứu cơ chế phân cấp quản lý và phân bổ nguồn lực tài chính từ NSNN một cách hợp lý và khoa học hơn nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư từ NSNN cho giáo dục nói chung và GDĐHCL nói riêng là cần thiết. Theo đó, cần phải có một cơ chế quản lý tài chính cho giáo dục nói chung và GDDDDHCL nói riêng trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam hiện tại. Do đó, Luận án thực hiện nghiên cứu cơ chế quản lý tài chính của Nhà nước cho phù hợp với đổi mới GDĐHCL từ đó đưa ra các giải pháp phù hợp nhằm nâng cao hiệu quả, chất lượng của GDĐHCL của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập và phát triển.


Kết luận Chương 1


Trong chương 1 tác giả đã thực hiện tổng quan các nghiên cứu liên quan đến nội dung của Luận án trên thế giới cũng như trong nước. Theo đó, có trên thế giới có hai hướng cụ thể bao gồm: (1) Các nghiên cứu theo hướng học thuật chủ yếu nghiên cứu về tài chính công làm cơ sở cho quản lý tài chính công đối với giáo dục nói chung, ĐH nói riêng; và (2) Các nghiên cứu theo hướng tác nghiệp thường nghiên cứu về quản lý tài chính đối với một đơn vị giáo dục cụ thể. Ở Việt Nam cũng có nhiều nghiên cứu liên quan đến cơ chế quản lý tài chính, tuy nhiên, chưa có một nghiên cứu nào đảm bảo tính hệ thống và đưa ra các giải pháp toàn diện đối với cơ chế quản lý tài chính cho GDĐHCL ở Việt Nam. Tác giả chỉ ra được một số khoảng trống nghiên cứu, trong đó, khoảng trống nghiên cứu quan trọng nhất là cần phải có một cơ chế quản lý tài chính toàn diện, nhất quán đối với GDĐHCL nhằm nâng cao hiệu quả, chất lượng của GDDH nói riêng, và ngành GD&ĐT nói chung.


Chương 2

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CƠ CHẾ QUẢN LÝ TÀI CHÍNH ĐỐI VỚI GIÁO DỤC ĐẠI HỌC CÔNG LẬP VÀ KINH NGHIỆM QUỐC TẾ


2.1. Giáo dục đại học và giáo dục đại học công lập

2.1.1. Giáo dục đại học

Theo Ronald Banrett có bốn khái niệm về giáo dục đại học:

1) GDĐH là một dây chuyền sản xuất mà đầu ra là nguồn nhân lực đạt chuẩn. Theo quan điểm này, GDĐH là một quá trình trong đó người học được quan niệm như những sản phẩm được cung ứng cho thị trường lao động. GDĐH trở thành "đầu vào" tạo nên sự phát triển và tăng trưởng của thương mại và công nghiệp;

2) GDĐH là đào tạo để trở thành nhà nghiên cứu. Theo cách nhìn này, GDĐH là thời gian chuẩn bị để tạo ra những nhà khoa học và nhà nghiên cứu thực thụ, những người sáng tạo ra những kiến thức mới;

3) GDĐH là quản lý việc tổ chức giảng dạy một cách hiệu quả. Cách tiếp cận này nhấn mạnh đến chức năng cốt lõi của giáo dục đại học là giảng dạy kiến thức, kỹ năng cho người học;

4) GDĐH là mở rộng cơ hội trong cuộc sống cho người học. Theo cách tiếp cận này, GDĐH được xem như một cơ hội để người học được tham gia vào quá trình phát triển bản thân bằng các thể thức học tập thường xuyên và linh hoạt. Có thể nói, ở đây có tính liên hoàn giữa bốn khái niệm này của giáo dục đại học; chúng liên quan và tích hợp với nhau để tạo ra bức tranh toàn cảnh về tính chất riêng biệt của GDĐH.

Theo Từ điển giáo dục học, GDĐH được hiểu là "bậc học đào tạo trình độ học vấn chuyên môn cao có mục tiêu đào tạo người học có phẩm chất chính trị, đạo đức, có ý thức phục vụ nhân dân, có kiến thức và năng lực thực hành nghề nghiệp tương ứng với trình độ đào tạo, có sức khoẻ đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc" [33, tr.122]. Ở Việt Nam hiện nay, mặc dù chưa có định nghĩa chính thức về GDĐH, nhưng có thể hiểu GDĐH là hình thức tổ chức giáo dục cho các bậc học sau giai đoạn bậc phổ thông với các trình độ đào tạo: gồm trình độ cao đẳng, trình độ đại học, trình độ thạc sĩ và trình độ tiến sĩ.


2.1.2. Giáo dục đại học công lập

2.1.2.1. Khái niệm giáo dục đại học công lập

Theo Luật Giáo dục đại học thì GDĐH là bậc giáo dục cao nhất trong hệ thống giáo dục Việt Nam và quy định các cơ sở đào tạo (CSĐT) - GDĐHCL là các CSĐT thuộc sở hữu Nhà nước, do Nhà nước đầu tư, xây dựng cơ sở vật chất.

* CSĐT - GDĐHCL bao gồm các trường ĐHCL, các học viện, các viện trực tiếp đào tạo ĐH và sau ĐH, trong đó: các trường ĐHCL chiếm tỷ trọng chủ yếu. Vì vậy để đơn giản sử dụng thuật ngữ trong GDĐHCL thì luận án sử dụng ĐHCL đại diện chung cho các CSĐT - GDĐHCL.

2.1.2.2. Phân loại đại học công lập

* Bản thân các trường ĐHCL cũng được phân thành ba loại chính như sau:

Đại học định hướng nghiên cứu: là các trường đại học chủ yếu giáo dục mang tính học thuật cao, chú trọng việc phát triển tư duy chiến lược và tư duy nghiên cứu.

ĐH định hướng GD: là các trường đại học dựa trên tình hình thực tế để có thể cung cấp nguồn nhân lực cho xã hội đã được trang bị các kỹ n ăng hướng tới thực hành và áp dụng kiến thức vào thực tế, chủ yếu thiên về các kỹ năng nghề nghiệp.

ĐH định hướng thực hành: chủ yếu trong nhóm này là các trường đào tạo trình độ Cao đẳng, phục vụ nhu cầu phổ cập. Trong đó, các chương trình đào tạo tập trung vào đáp ứng với nhu cầu thực hành thực tế theo ngành nghề trong nền kinh tế.

2.1.2.3. Vai trò của đại học công lập

ĐHCL có vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế xã hội cũng như đối với hệ thống giáo dục của mỗi quốc gia thể hiện ở các mặt sau:

Thứ nhất, vai trò của nhà nước được thể hiện rõ nét trong ĐHCL. Thông qua các trường ĐHCL, Nhà nước điều tiết cơ cấu đào tạo nguồn nhân lực một cách hợp lý để duy trì và phát triển cho ngành giáo dục, đào tạo. Nhà nước đầu tư vào các trường ĐHCL nhằm đảm bảo lợi ích công và sự công bằng xã hội, bình đẳng cho người dân khi tiếp cận giáo dục đại học.

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 03/09/2022