Nội Dung Cơ Chế Quản Lý Tài Chính Đối Với Gdđhcl Trong Bối Cảnh Hội Nhập Và Phát Triển


- Cơ chế là cách thức điều hành mà theo đó một quá trình được thực hiện.

Với cách tiếp cận trên có thể hiểu một cách tổng quát: cơ chế là cách thức hoạt động của một tập hợp các yếu tố phụ thuộc vào nhau mà theo đó một quá trình được thực hiện. Cơ chế có thể được hình thành và vận động một cách tự động và khách quan để một quá trình được thực hiện. Mặt khác, con người có thể nhận thức được tính tất yếu khách quan mà hình thành cơ chế và có cách thức tác động để một quá trình được thực hiện.

* Khái niệm quản lý

Một số khái niệm với những tiếp cận khác nhau về quản lý:

- Quản lý là những tác động có định hướng, có tổ chức của chủ thể quản lý đến đối tượng bị quản lý trong tổ chức để vận hành tổ chức, nhằm đạt mục đích nhất định.

- Quản lý là những tác động của chủ thể quản lý trong việc huy động, phát huy, kết hợp, sử dụng, điều chỉnh, điều phối các nguồn lực (nhân lực, vật lực, tài lực) trong và ngoài tổ chức (chủ yếu là nội lực) một cách tối ưu nhằm đạt mục đích của tổ chức với hiệu quả cao nhất.

Từ các khái niệm trên, luận án sử dụng khái niệm thứ hai về huy động, phát huy, kết hợp, sử dụng, điều chỉnh, điều phối các nguồn lực tài chính.

* Khái niệm cơ chế quản lý

Cơ chế quản lý là tổng thể các cách thức mà chủ thể quản lý sử dụng để tác động đến đối tượng quản lý trong việc huy động, phân phối, sử dụng nguồn lực một cách tối ưu nhằm mục tiêu của tổ chức.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 191 trang tài liệu này.

* Khái niệm quản lý tài chính và cơ chế quản lý tài chính

- QLTC là quản lý các hoạt động huy động, phân bổ và sử dụng các nguồn lực tài chính bằng những phương pháp tổng hợp gồm nhiều biện pháp khác nhau được thực hiện trên cơ sở vận dụng các quy luật khách quan về kinh tế - tài chính một cách phù hợp với điều kiện đổi mới, hội nhập quốc tế của đất nước [38].

Vận dụng các khái niệm liên quan nêu trên, luận án đưa ra khái niệm về cơ chế quản lý như sau: Cơ chế quản lý tài chính là tổng thể các cách thức mà chủ thể quản lý các hoạt động huy động, phân bổ và sử dụng các nguồn lực tài chính bằng


những phương pháp tổng hợp gồm nhiều biện pháp khác nhau được thực hiện trên cơ sở vận dụng các quy luật khách quan về kinh tế - tài chính một cách phù hợp với điều kiện đổi mới, hội nhập quốc tế của đất nước.

2.2.2.2. Nội dung cơ chế quản lý tài chính đối với GDĐHCL trong bối cảnh hội nhập và phát triển

Hoạt động tài chính trong GDĐHCL gắn liền với hoạt động của CSĐT, có thể hình dung cơ chế quản lý tài chính đối với GDĐHCL với quan niệm là tổng thể cách thức điều hành bao gồm những nội dung chủ yếu sau đây:

Thứ nhất: Cơ chế phân cấp quản lý ngân sách GDĐHCL

Phân cấp quản lý NSNN là nhiệm vụ quan trọng trong quản lý NSNN, được thiết kế xây dựng trên nền tảng tổ chức bộ máy nhà nước và các vấn đề kinh tế - xã hội cũng như đòi hỏi yêu cầu quản lý NSSNN trong từng giai đoạn, phân cấp quản lý NSNN được thực hiện từ khá sớm, trong mỗi thời kỳ phát triển khác nhau, mức độ phân cấp ngân sách cũng khác nhau. Kể từ khi Luật NSNN năm 1996 được ban hành, việc phân cấp quản lý ngân sách đã tuân thủ theo những nguyên tắc cơ bản và tương đối ổn định, rõ ràng, công khai, minh bạch, đảm bảo tính chủ động của chính quyền các cấp ở địa phương và quản lý tập trung của trung ương và Luật NSNN năm 2015, vấn đề phân cấp ngân sách đã tạo cho các địa phương tự chủ trong điều hành quản lý ngân sách, cũng như sử dụng hợp lý hơn trong nguồn thu và phân chia nhiệm vụ chi, đồng thời tăng cường tính chủ động của địa phương.

Trên cơ sở quy mô và tiềm lực của NSNN, hàng năm NSNN dành một tỷ lệ nhất định chi cho giáo dục, trong đó có GDĐH. Trước thời kỳ đổi mới, phần NSNN dành cho GDĐH chủ yếu được quản lý tập trung do BTC trực tiếp quản lý. Từ sau đổi mới đất nước đến nay, do GDĐH có quy mô ngày càng mở rộng, tổ chức GDĐH đa dạng, có trường ĐH trực thuộc chính phủ, có trường trực thuộc Bộ/Ngành và có trường ĐHCL trực thuộc địa phương. Do đó, phần NSNN dành cho GDĐH được tập trung quản lý theo những mô hình khác nhau. Đối với những trường ĐHCL thuộc Chính phủ thì phần vốn NSNN dành cho các trường này do Bộ tài chính trực tiếp quản lý và phân bổ ; đối với những trường ĐHCL thuộc các


bộ/ngành quản lý thì nguồn vốn NSNN dành cho các trường này do Bộ/ngành trực tiếp quản lý và phân bổ, trường ĐHCL thuộc địa phương quản lý thì nguồn vốn NSNN dành cho các trường này do địa phương quản lý và phân bổ. Tuy nhiên, đứng trên phương diện về quản lý hoạt động GDĐH về quy mô, chất lượng, chương trình, chế độ bằng cấp thì do Bộ GD&ĐT quản lý.

Có thể hình dung quá trình lập và phân bổ dự toán theo mô hình như sau:


Hình 2 1 Quy trình lập và phân bổ dự toán NSNN cho GDĐH công lập ở Việt 1

Hình 2.1. Quy trình lập và phân bổ dự toán NSNN cho GDĐH công lập ở Việt Nam‌

Nguồn: Tổng hợp của tác giả

Quá trình lập dự toán ngân sách và phân bổ dự toán đã khái quát theo mô hình kể trên, cho thấy việc phân cấp quản lý ngân sách cho lĩnh vực GDĐH được thực hiện bởi Bộ GD&ĐT và các Bộ chuyên ngành. Tuy nhiên Bộ GD&ĐT vẫn có trách nhiệm chính. Cơ chế phân cấp quản lý ngân sách GDĐH như vậy là thích hợp với mô hình đào tạo ĐH hiện nay ở nước ta.

Trên cơ sở đó, việc quản lý ngân sách của GDĐH do Bộ GD&ĐT trực tiếp và cơ chế phân cấp quản lý ngân sách cho các trường do Bộ quyết định sao cho vừa


đảm bảo yêu cầu hoạt động của nhà trường phù hợp với bối cảnh hội nhập và phát triển, vừa đảm bảo được yêu cầu tiết kiệm, hiệu quả giữ vững được kỷ cương, kỷ luật tài chính.

Thứ hai: Cơ chế phân bổ ngân sách nhà nước cho giáo dục đại học công lập

* Phân bổ ngân sách nhà nước cho các cơ sở giáo dục đại học công lập cần đạt được các yếu tố sau:

- Đảm bảo ngân sách phù hợp: Một mô hình phân bổ ngân sách phải đảm bảo đủ mức ngân sách cần thiết cho mỗi trường đại học, để mỗi trường đều hoàn thành nhiệm vụ và đạt mục tiêu đề ra theo mỗi giai đoạn hội nhập và phát triển của từng trường.

- Đơn giản và dễ hiểu: Mô hình phân bổ ngân sách về nguyên tắc phải đảm bảo tính dễ hiểu cho tất cả các bên tham gia trong quá trình phân bổ ngân sách - hiểu được những đặc điểm khác biệt giữa các trường và nhiệm vụ của từng trường sẽ ảnh hưởng như thế nào tới mức ngân sách được cấp tính theo mô hình.

- Phân bổ ngân sách phải đảm bảo tính công bằng giữa các trường: Mô hình phải đảm bảo cho phép phân bổ nguồn lực tỷ lệ với nhu cầu, nhiệm vụ của từng trường, có tính tới quy mô của trường, loại trường trong từng giai đoạn hội nhập và phát triển.

- Ngân sách phải đảm bảo tính ổn định: theo mô hình, mức độ thay đổi phân bổ ngân sách sẽ không được phép diễn ra nhanh hơn mức thay đổi hợp lý mà từng trường có thể điều chỉnh.

- Mô hình Ngân sách phải đảm bảo có tính “thích ứng”: Ngân sách do mô hình tính toán ra phải đảm bảo đáp ứng được các thay đổi của các trường về khối lượng công việc, nhiệm vụ trong bối cảnh hội nhập và phát triển.

- Mô hình phải tính tới các nhiệm vụ khác nhau của từng trường: các nhiệm vụ khác nhau của từng trường có thể đòi hỏi có mức phân bổ ngân sách theo sinh viên khác nhau trong bối cảnh hội nhập và phát triển.

- Mô hình phải dựa trên số liệu đáng tin cậy, thống nhất, có giá trị.

- Mô hình phải phù hợp với mục tiêu của Nhà nước về giáo dục đại học: Mô


hình phải là công cụ để thực hiện các mục tiêu lớn của Nhà nước (như công bằng, tiếp cận) về hệ thống giáo dục trong bối cảnh hội nhập và phát triển.

- Mô hình phải khuyến khích được các trường đại học hoạt động một cách năng động, tự chủ, tự chịu trách nhiệm, tăng trách nhiệm giải trình; hạn chế ỷ lại vào Ngân sách nhà nước.

Do vậy, cơ sở phân bổ NSNN chưa gắn với tiêu chí chất lượng và kết quả đầu ra, cơ bản còn dựa trên khả năng của NSNN và các yếu tố đầu vào khác. Ngoài ra, nước ta hiện chưa xây dựng được chính sách phân bổ NSNN dựa trên các phương thức về đấu thầu, đặt hàng cung cấp dịch vụ sự nghiệp công.

Thứ ba: Cơ chế quản lý các nguồn tài chính ngoài ngân sách nhà nước

Phương thức điều hành quá trình huy động nguồn lực, yêu cầu của cơ chế quản lý quá trình huy động nguồn lực tài chính ngoài NSNN là phải phù hợp với khả năng đóng góp của xã hội, đảm bảo yêu cầu công khai, minh bạch, bình đẳng, công bằng về mặt xã hội.

Nội dung của cơ chế quản lý quá trình huy động nguồn lực tài chính ngoài NSNN phải được xem xét trên các khía cạnh sau đây:

- Xem xét đến khía cạnh thiết lập mức động viên. Mức động viên nguồn lực tài chính ngoài NSNN cho sự nghiệp GDĐH chịu sự chi phối bởi các nhân tố sau đây:

+ Mức thu nhập bình quân của xã hội nói chung, mức thu nhập của người hưởng thụ các dịch vụ GDĐH nói riêng.

+ Chi phí cho việc cung cấp các dịch vụ GDĐH.

+ Những lợi ích thực tế mang lại cho người thụ hưởng dịch vụ GDĐH. Dựa trên những nhân tố đó để tính toán mức động viên thích hợp.

- Lựa chọn phương thức động viên và lĩnh vực động viên. Trong thực tế có nhiều phương thức và lĩnh vực động viên nguồn lực tài chính ngoài NSNN cho GDĐH có thể động viên qua phương thức thu học phí, qua các khoản thu từ hoạt động NCKH, tư vấn, cung cấp dịch vụ, qua hình thức vay ngân hàng thương mại, ngân hàng phát triển.


Cùng với công việc trên trong quản lý các khoản chi cho GDĐH phải tiến hành thường xuyên phân tích, đánh giá, kiểm soát đảm bảo cân đối giữa thu - chi. Trong quá trình quản lý các khoản chi chú trọng đến việc lập thứ tự ưu tiên chi. Đây là một trong những nội dung quan trọng của cơ chế quản lý chi cho GDĐH, bởi lẽ trong thực tế nhu cầu chi thì lớn, song khả năng đảm bảo nguồn tài chính có hạn.

Thứ tư: Cơ chế kiểm tra, kiểm soát các hoạt động tài chính tại các trường đại học công lập

* Yêu cầu thực hiện quản lý kiểm tra, kiểm soát và công khai tài chính:

Thứ nhất, đánh giá tình hình triển khai chấp hành dự toán ngân sách hàng năm tại đơn vị theo quy định của pháp luật về NSNN, tình hình chấp hành công tác thực hành tiết kiệm, chống lãng phí của đơn vị.

Thứ hai, tình hình chấp hành chính sách huy động các nguồn thu ngoài NSNN và quản lý các khoản thu, chi tài chính, quản lý và sử dụng tài sản, tiền vốn, sử dụng quỹ lương, các quỹ của cơ quan và công tác đầu tư xây dựng cơ bản trong đơn vị.

Thứ ba, phát hiện và chấn chỉnh kịp thời các sai phạm, áp dụng các biện pháp xử lý các sai phạm theo đúng thẩm quyền đã được phân cấp. Đồng thời tổ chức rút kinh nghiệm, đánh giá những tồn tại, tìm ra nguyên nhân và đưa ra phương hướng, biện pháp khắc phục nhằm tăng cường công tác quản lý tài chính, kế toán tại đơn vị.

* Cơ chế tự kiểm tra

Thực hiện Quyết định số 67/2004/QĐ-BTC ngày 13/8/2004 của Bộ Tài chính về việc ban hành Quy chế về tự kiểm tra tài chính, kế toán tại các cơ quan, đơn vị có sử dụng kinh phí NSNN [10]. Các cơ sở GDĐH thực hiện tự thanh tra và tự kiểm tra theo quy định của pháp luật. Hiệu trưởng cơ sở GDĐH chịu trách nhiệm về thanh tra, kiểm tra trong cơ sở GDĐH. Các trường ĐH tiến hành tự kiểm tra, kiểm soát chế độ tài chính của mình qua các nội dung sau: kiểm tra các khoản thu ngân sách, khoản chi ngân sách, việc xác định các khoản chênh lệch thu chi hoạt động và trích lập các quỹ, việc quản lý sử dụng tài sản của Nhà nước, việc trích lập quỹ lương.

* Công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm

Thanh tra, kiểm tra hoạt động tài chính GDĐH bao gồm: Thanh tra, kiểm tra việc thực hiện pháp luật, chính sách về tài chính GDĐH; phát hiện, ngăn chặn và xử


lý theo thẩm quyền hoặc kiến nghị cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xử lý các vi phạm pháp luật về tài chính GDĐH; xác minh, kiến nghị cơ quan Nhà nước có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo về tài chính GDĐH. KTNN phát hiện những hạn chế, bất cập trong quản lý, sử dụng NSNN, từ đó đưa ra các kiến nghị để các đơn vị được kiểm toán có biện pháp khắc phục, chấn chỉnh, đảm bảo trật tự, kỷ luật tài chính và minh bạch việc sử dụng ngân sách. Bên cạnh đó, thông qua hoạt động kiểm toán, KTNN đã kiến nghị sửa đổi, bổ sung hoặc huỷ bỏ các văn bản có liên quan đến quản lý, sử dụng NSNN không phù hợp với thực tiễn hoặc trái với quy định hiện hành. Những kiến nghị sửa đổi hay huỷ bỏ văn bản quản lý đó đã góp phần làm minh bạch chính sách tài chính: Minh bạch trong xác định nguồn thu, mức thu, số thu NSNN và minh bạch trong chi tiêu ngân sách. Có thể nói, các kiến nghị, đề xuất xử lý tài chính của KTNN, đã góp phần không nhỏ làm minh bạch NSNN và lành mạnh nền tài chính quốc gia; Thanh tra Bộ GD&ĐT thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành về GDĐH. Bộ trưởng Bộ GD&ĐT chỉ đạo, hướng dẫn và tổ chức thanh tra, kiểm tra về GDĐH. Các bộ, cơ quan ngang bộ, UBND cấp tỉnh thực hiện nhiệm vụ thanh tra, kiểm tra về công tác quản lý tài chính, tài sản, phòng chống tham nhũng cơ sở GDĐH trực thuộc.

Tổ chức, cá nhân có một trong các hành vi sau đây thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm về bị xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính; cá nhân còn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật: Thành lập cơ sở GDĐH hoặc tổ chức hoạt động giáo dục trái pháp luật; vi phạm các quy định về tổ chức, hoạt động của GDĐH; xuất bản, in, phát hành tài liệu trái pháp luật; làm hồ sơ giả, vi phạm quy chế tuyển sinh, thi cử và cấp văn bằng, chứng chỉ; xâm phạm nhân phẩm, thân thể giảng viên, cán bộ quản lý giáo dục; ngược đãi, hành hạ người học; vi phạm quy định về bảo đảm chất lượng và kiểm định chất lượng GDĐH; gây rối, làm mất an ninh, trật tự trong cơ sở GDĐH; làm thất thoát kinh phí, lợi dụng hoạt động GDĐH để thu tiền sai quy định hoặc vì mục đích vụ lợi; gây thiệt hại về cơ sở vật chất của cơ sở GDĐH; các hành vi vi phạm pháp luật về GDĐH.


* Cơ chế công khai tài chính

Căn cứ Thông tư 21/2005/TT-BCT ngày 22/03/2005 của BTC hướng dẫn thực hiện quy chế công khai tài chính đối với các đơn vị dự toán ngân sách và các tổ chức được NSNN hỗ trợ [12]. Căn cứ Thông tư số 09/2009/TT-BGDĐT, ngày 07/5/2009 của Bộ GD&ĐT, về việc ban hành Quy chế thực hiện công khai đối với GDĐH của hệ thống giáo dục quốc dân [7]. Thực hiện Công văn số 8448/BGDĐT- KHTC ngày 22/11/2013 của Bộ GD&ĐT về việc hướng dẫn báo cáo các nội dung thực hiện quy chế công khai đối với các cơ sở GDĐH theo quy định tại 09/2009/TT-BGDĐT [6]. Các trường ĐH thực hiện công khai tài chính của mình.

Nội dung công khai gồm có công khai cam kết chất lượng giáo dục và chất lượng ĐT thực tế, công khai đảm bảo chất lượng giáo dục và công khai thu chi tài chính đối với mức thu học phí và các khoản thu khác cho từng năm học và dự kiến cả khoá học; các nguồn thu từ các hợp đồng ĐT, nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ, sản xuất, tư vấn và các nguồn thu hợp pháp khác; chính sách học bổng và kết quả thực hiện trong từng năm học.

Các nội dung công khai được thể hiện dưới dạng các văn bản như: Kế hoạch tài chính hàng năm, trong đó có chi tiết các khoản thu, các khoản chi có quan hệ với NSNN; Quyết toán tài chính năm được cấp có thẩm quyền phê duyệt; Quyết định phê duyệt đề án, dự án, nhiệm vụ chuyên môn hoặc đề tài nghiên cứu khoa học đã hoàn thành các thẩm quyền; Quyết định phê duyệt danh mục và dự toán mua sắm tài sản; Quyết định phê duyệt kỹ thuật và dự toán các nhiệm vụ sửa chữa lớn và xây dựng nhỏ tài sản; Quyết định phê duyệt kế hoạch đấu thầu, thời gian thực hiện gói thầu; Quyết định công khai mức học phí trong năm học…

Các trường ĐH phải thực hiện công khai bằng văn bản, in thành tài liệu gửi đến đối tượng được công khai; trên trang thông tin điện tử của trường, đảm bảo tính đầy đủ và cập nhật khi có thông tin mới được thay đổi để thông tin luôn chính xác và kịp thời. Ngoài ra, đối với sinh viên, học viên, nghiên cứu sinh tuyển mới: phổ biến trong các cuộc họp với sinh viên, học sinh vào thời điểm trước khi cơ sở giáo dục thực hiện tuyển sinh; đối với sinh viên, học viên, nghiên cứu sinh đang học tại

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 03/09/2022