Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Cơ Chế Quản Lý Tài Chính Đối Với Giáo Dục Đại Học Công Lập Trong Bối Cảnh Hội Nhập Và Phát Triển


cơ sở giáo dục: phát tài liệu cho sinh viên, học viên, nghiên cứu sinh có nhu cầu nội dung công khai vào thời điểm đầu năm học mới. Các văn bản được công khai chậm nhất là 30 ngày, kể từ ngày được cấp có thẩm quyền phê duyệt.

Các nội dung công khai yêu cầu đòi hỏi của tự chịu trách nhiệm gắn liền với trách nhiệm giải trình, bao gồm với trách nhiệm xã hội là thực hiện đúng những cam kết của trường với xã hội: Đảm bảo chất lượng đào tạo, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, đảm bảo thông tin minh bạch và trách nhiệm người đứng đầu với tập thể cán bộ.

Tại Thông tư số 61/2017/TT-BTC ngày 15/06/2017 của Bộ Tài chính có điểm khác biệt so với quy định tại Thông tư số 21/2005/TT-BTC ngày 22/3/2005 đó là quy định phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng và quy định hướng dẫn cụ thể về công khai ngân sách đối với đơn vị dự toán ngân sách, tổ chức được ngân sách Nhà nước hỗ trợ. Theo đó thì đơn vị dự toán ngân sách cấp trên phải công khai dự toán thu – chi ngân sách nhà nước, kể cả phần điều chỉnh giảm hoặc bổ sung (nếu có) được cấp có thẩm quyền giao; nguồn kinh phí khác và phân bổ cho các đơn vị cấp dưới trực thuộc, các đơn vị được ủy quyền; Công khai các căn cứ, nguyên tắc, định mức phân bổ dự toán ngân sách. Đối với đơn vị sử dụng ngân sách, phải công khai dự toán thu – chi ngân sách Nhà nước, kể cả phần điều chỉnh giảm hoặc bổ sung (nếu có) đã được cấp có thẩm quyền giao và nguồn kinh phí khác. Đối với báo cáo công khai tài chính các cấp ngân sách: Thực hiện theo quy định tại Điều 19 của Thông tư số 343/2016/TT-BTC ngày 30/12/2016 của Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện công khai ngân sách nhà nước đối với ngân sách cấp huyện, thành phố. Về thời điểm báo cáo, Báo cáo dự toán ngân sách Nhà nước phải được công khai chậm nhất là 15 ngày, kể từ ngày được đơn vị dự toán cấp trên hoặc cấp có thẩm quyền giao đầu năm và điều chỉnh giảm hoặc bổ sung trong năm (nếu có); Báo cáo tình hình thực hiện dự toán ngân sách Nhà nước hằng quý, 06 tháng phải được công khai chậm nhất là 15 ngày, kể từ ngày kết thúc quý và 06 tháng; Báo cáo tình hình thực hiện ngân sách Nhà nước hàng năm được công khai chậm nhất là 05 ngày làm việc, kể từ ngày đơn vị báo cáo đơn vị dự toán cấp trên trực tiếp; Báo cáo quyết toán


ngân sách Nhà nước phải được công khai chậm nhất là 15 ngày, kể từ ngày được đơn vị dự toán cấp trên hoặc cấp có thẩm quyền phê duyệt.

2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến cơ chế quản lý tài chính đối với giáo dục đại học công lập trong bối cảnh hội nhập và phát triển

2.3.1. Các nhân tố bên ngoài

2.3.1.1. Bối cảnh hội nhập và phát triển

Bối cảnh hội nhập và phát triển ảnh hưởng đáng kể đến hoạt động giáo dục đào tạo ĐH và việc huy động các nguồn lực tài chính ngoài ngân sách để đáp ứng nhu cầu giáo dục đào tạo trong các trường ĐHCL. Sự tác động này ở hai khía cạnh: Một mặt, thực hiện hợp tác giáo dục đào tạo với các nước trên thế giới giúp các trường ĐHCL trong nước huy động được các nguồn lực quốc tế tham gia đầu tư thông qua các hình thức hợp tác và liên kết đào tạo, huy động được các nguồn tài trợ, viện trợ của các tổ chức quốc tế; mặt khác, khi đất nước mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế sẽ xuất hiện nhiều trường do các tổ chức quốc tế thành lập và hoạt động tại nước chủ nhà.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 191 trang tài liệu này.

Điều này sẽ gia tăng sự cạnh tranh trong giáo dục đào tạo cũng như huy động nguồn lực với các cơ sở giáo dục đào tạo nói chung và các trường ĐHCL ở Việt Nam nói riêng. Khi cơ sở GDĐH lọt vào các bảng xếp hạng lớn thì chúng ta phải tuân thủ luật chơi của tổ chức xếp hạng đó. Các trường ĐH phải xác định, định phấn đấu theo bảng xếp hạng nào thì cần cố gắng đạt được các tiêu chí xếp hạng của tổ chức đó.

2.3.1.2. Vai trò của GDĐH

Cơ chế quản lý tài chính đối với giáo dục đại học công lập ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập và phát triển - 7

Trên phạm vi toàn cầu, xã hội loài người đang chuyển dịch mạnh mẽ sang nền kinh tế tri thức (lấy sáng tạo, ứng dụng tri thức làm động lực phát triển). Vai trò của trường ĐH được nâng lên, điều này, buộc GDĐH trên thế giới phải thay đổi:

- Một là, GDĐH có sự dân chủ hơn. Nhiều nước đã chuyển mô hình ĐH tinh hoa sang mô hình ĐH đại chúng. GDĐH phát triển với tốc độ, quy mô lớn chưa từng có. Ở Việt Nam những năm gần đây số lượng tuyển sinh tăng nhanh làm cho GDĐH thay đổi cả về quy mô và chất lượng.


- Hai là, GDĐH phải đào tạo ra một lực lượng lao động có trình độ cao, có tư duy linh hoạt, mềm dẻo, có khả năng cập nhật kiến thức mới để thích nghi với sự thay đổi của môi trường lao động để làm việc cả trong và ngoài nước, kiến thức học một lần không thể sử dụng suốt đời như trước đây.

- Ba là, sự phát triển của công nghệ thông tin và cách mạng 4.0 làm cho thế giới trở nên nhỏ bé và phẳng hơn, sự ảnh hưởng của một cá nhân, một tập thể, một quốc gia này tới một cá nhân, một tập thể, một quốc gia khác dễ dàng hơn. Cho nên, nhiều nước đã rất chú trọng tới việc phát triển xuất khẩu dịch vụ GDĐH, xem nó như là một ngành kinh tế xuất khẩu quan trọng đem lại nguồn lực tài chính to lớn cho nên kinh tế quốc gia.

- Bốn là, tính cạnh tranh trong GDĐH được thể hiện ngày càng gay gắt hơn.

2.3.1.3. Xu hướng phát triển GDĐH dẫn tới thay đổi các quan điểm trong quản lý tài chính GDĐH

Xu hướng chung của GDĐH đã được tổng hợp bởi một nhóm chuyên gia quốc tế cao cấp về GDĐH [40], cụ thể như sau:

+ Xu hướng thứ nhất: Nhu cầu học tập ở ĐH không ngừng gia tăng; hệ thống trường ĐH ngày càng phát triển; đối tượng người học ngày càng đa dạng.

i) Số người có nhu cầu học tập bậc ĐH không ngừng gia tăng ở tất cả các quốc gia trên thế giới. Sự gia tăng này không chỉ do sự gia tăng cơ học của dân số ở mỗi quốc gia mà còn thể hiện nhu cầu mở rộng tri thức, được tiếp cận những công việc mang lại thu nhập tốt hơn trong thời đại nền kinh tế tri thức đang ngày càng chiếm ưu thế.

ii) Đi đôi với sự gia tăng số trường ĐH là sự cạnh tranh gay gắt giữa các trường Đại học trong và ngoài nước; Giữa các trường ĐH công lập và ĐH dân lập (tư thục) với các trường ĐH quốc tế đang hoạt động tại quốc gia.

iii) sự xuất hiện ngày càng nhiều các trường đào tạo chuyên ngành, chẳng hạn các trường ĐH kỹ thuật, kinh tế, y khoa… Để tạo thuận lợi cho việc tiếp cận GDĐH, nhiều quốc gia đã quan tâm phát triển hệ thống các trường CĐ, ĐH cộng đồng, các hình thức đào tạo tại chức, từ xa, qua mạng.


iv) Cùng với sự gia tăng số người học ĐH là sự phát triển của đối tượng người học không/ phi chính quy, từ các quốc gia khác đến, từ các cộng đồng thiểu số và từ các tầng lớp xã hội khác nhau. Ở một số quốc gia, tỷ lệ người học là nữ cũng đang tăng lên nhanh chóng.

+ Xu hướng thứ hai: Nguồn tài chính đầu tư và GDĐH ngày càng phong phú; tính tự chủ và tự chịu trách nhiệm xã hội của các trường ĐH ngày càng được tăng cường; mức độ tư nhân hoá GDĐH ngày càng tăng.

i) Mặc dù Chính phủ là nhà đầu tư chủ yếu cho GDĐH ở hầu hết các quốc gia song hiện nay ngày càng có nhiều nguồn tài chính khác giúp chia sẻ chi phí này: người học, doanh nghiệp, các tổ chức xã hội/ phi Chính phủ trong và ngoài nước; sự tài trợ của quốc tế… Bản thân các trường ĐH cũng đang ngày càng nâng cao khả năng tăng nguồn thu thông qua các hoạt động đào tạo, NCKH, dịch vụ cộng đồng…

ii) Các trường ĐH ngày càng được trao quyền quyết định nhiều hơn trên tất cả các mặt: học thuật, nhân sự, tài chính… Thông qua hoạt động kiểm định chất lượng đào tạo nhân sự bậc ĐH ngày càng phổ biến ở tất cả các quốc gia, các trường ĐH cũng ý thức và thực hiện tốt hơn trách nhiệm của nhà trường đối với xã hội.

+ Xu hướng thứ ba: Quy mô đầu tư của Nhà nước trong trường ĐH ngày càng gắn với chất lượng; mức độ đóng góp của người học ngày càng lớn; chi phí đào tạo ĐH càng được chú ý.

i) Ở nhiều quốc gia, đầu tư cho ĐH từ Chính phủ không còn theo kiểu bình quân hay dựa vào số lượng sinh viên đầu vào mà căn cứ chủ yếu vào việc đạt được các chỉ số thực hiện thể hiện năng lực duy trì chất lượng của mỗi trường. Chẳng hạn tại Anh, sự phân bổ kinh phí ĐH được căn cứ trên kết quả kiểm toán các trường ĐH tiến hành bởi Cơ quan đảm bảo chất lượng GDĐH.

ii) Sự gia tăng số người học và chi phí thực tế trên mỗi người học đã buộc hầu hết các quốc gia đi đến giải pháp gia tăng mức đóng góp của người học thông qua nâng cao mức học phí. Bên cạnh sự gia tăng này, nhiều quốc gia đã thiết lập cơ chế cho phép người học vay nợ và trả dần sau khi tốt nghiệp

iii) Chi phí đào tạo ĐH được hiểu là tổng chi phí để ĐT một sinh viên ra trường, ngày càng tăng cao. Nhìn chung, mức tăng này còn cao hơn cả tỷ lệ lạm


phát bình quân của xã hội. Về bản chất, mức tăng này là kết quả của sự nhận thức ngày một đầy đủ hơn về các chi phí thực tế trong hoạt động của trường ĐH. Nhiều quốc gia đã có chính sách buộc các trường ĐH phải không ngừng cải tiến phương pháp quản lý, phục vụ để giảm bớt chi phí.

+ Xu hướng thứ tư: Xếp hạng các trường ĐH ngày càng được quan tâm

Một khi GDĐH trở thành thị trường, thì tất yếu khách hàng cần phải được cung cấp thông tin đầy đủ về các sản phẩm. Đa số người học không còn đủ thời gian và kiên nhẫn để nghiên cứu các báo cáo về chất lượng của các trường ĐH dựa trên nhiều tiêu chí khác nhau. Họ mong muốn được nhìn thấy một kết quả xếp hạng tương đối giữa các trường để có thể đưa ra sự lựa chọn. Nhiều trường ĐH, tuy phản đối chuyện xếp hạng hoặc không đồng tình với bộ tiêu chí dùng để xếp hạng do các tổ chức độc lập đưa ra, họ cũng không thể thản nhiên đứng ngoài việc xếp hạng. Với nhiều trường ĐH, thà được có mặt trong bảng xếp hạng với những tiêu chí chưa đạt còn hơn là không có tên trong danh sách xếp hạng.

Tiến trình đại chúng hoá GDĐH đã làm thay đổi quan niệm cơ bản coi GDĐH có lợi ích công thuần tuý sang quan niệm GDĐH vừa có lợi ích công, vừa mang lại lợi ích tư. Đây là luận cứ cho việc quyết định chính sách tài chính đối với GDĐH nói chung và vai trò của các nguồn tài chính ngoài kinh phí NSNN cấp cho các trường ĐHCL. Các chính sách tài chính được xem xét đến khi vận dụng triết lý này là vấn đề cơ cấu lại ngân sách kết hợp với huy động các nguồn lực xã hội hoá đầu tư cho các trường ĐHCL, hay vấn đề chia sẻ chi phí và nguyên tắc xác định học phí.

Sự phát triển của GDĐH cùng với quan điểm thừa nhận GDĐH là một loại hàng hoá cá nhân đặc biệt là cơ sở để dịch vụ GDĐH có định hướng thị trường và chịu tác động của thị trường. Cơ chế quản lý tài chính đối với các trường ĐHCL bị ảnh hưởng và cũng chịu sự chi phối bởi các quy luật tất yếu của thị trường.

2.3.2. Các nhân tố bên trong

2.3.2.1. Chủ trương, chính sách của Nhà nước đối với giáo dục - đào tạo

Chính sách của Nhà nước trong sự nghiệp phát triển giáo dục là một trong những yếu tố tác động lớn tới việc huy động nguồn tài chính đầu tư cho giáo dục -


đào tạo. Bởi lẽ trong những điều kiện lịch sử cụ thể mà Đảng và Nhà nước có các chính sách đối với giáo dục - đào tạo, từ đó mà nguồn tài chính đầu tư cho giáo dục

- đào tạo theo đó cũng có những thay đổi đáng kể.

Khi có các chủ trương, chính sách đối với sự nghiệp phát triển GDĐH phù hợp sẽ tạo điều kiện cho các cơ sở GDĐH tăng cường huy động các nguồn tài chính đầu tư cho giáo dục - đào tạo theo nhu cầu phát triển. Từ đó các cơ sở GDĐH có khả năng mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng dịch vụ giáo dục; mặt khác làm giảm gánh nặng cho NSNN.

2.3.2.2. Trình độ phát triển KT - XH và mức thu nhập của người dân

Trình độ phát triển KT - XH có ảnh hưởng tới việc huy động các nguồn tài chính đầu tư cho giáo dục - đào tạo. Phát triển kinh tế như sự gia tăng về sản xuất, dịch chuyển cơ cấu kinh tế, tạo việc làm tăng thu nhập và tăng mức sống của người dân là một trong những nhân tố ảnh hưởng lớn đến thực hiện chủ trương "Toàn xã hội chăm lo cho sự nghiệp giáo dục" cũng như việc thực hiện xã hội hoá GDĐH.

Nền kinh tế phát triển, người dân có thu nhập cao sẽ tạo tiền đề tốt thực hiện huy động toàn xã hội tham gia đóng góp nguồn lực cho phát triển giáo dục. Ngược lại, nền kinh tế kém phát triển, thu nhập người dân thấp, thì việc huy động tham gia đầu tư cho giáo dục hạn chế.

2.3.2.3. Định hướng phát triển các trường ĐHCL.

Đây chính là nền tảng để Nhà nước ban hành các thể chế chính sách nhằm đảm bảo thực hiện đúng định hướng đã đề ra, đặc biệt là vấn đề phân tầng hệ thống GDĐH. Các chính sách, quy định pháp lý về cơ chế quản lý tài chính cũng sẽ được xây dựng hướng tới mục tiêu này như chính sách cần ưu tiên nguồn lực đầu tư, chính sách tăng quyền tự chủ trong đào tạo chất lượng cao,.,.

2.3.2.4. Tư duy, quan điểm của các nhà quản lý giáo dục đại học, năng lực quản lý tài chính của các chủ thể tham gia vận hành cơ chế quản lý tài chính

Tư duy, quan điểm của các nhà quản lý giáo dục đại học đặc biệt là của ban giám hiệu trong các trường đại học công lập có ảnh hưởng đến cơ chế quản lý tài chính đối với giáo dục Đại học công lập trong bối cảnh hội nhập và phát triển. Bên


cạnh đó, năng lực của chủ thể quản lý sẽ quyết định vai trò thực sự khi vận hành cơ chế quản lý tài chính. Đây chính là yếu tố quan trọng quyết định chất lượng và hiệu quả của cơ chế quản lý tài chính. Tổ chức bộ máy phải gọn nhẹ, linh hoạt, hiệu quả; tư duy lãnh đạo của các cấp quản lý phải theo nền kinh tế thị trường, năng động, sáng tạo. Năng lực của đội ngũ lãnh đạo và quản lý tài chính trong các trường đại học công lập sẽ quyết định hiệu quả vận hành của cơ chế tài chính.

2.4. Những vấn đề đặt ra cho đổi mới cơ chế quản lý tài chính đối với các trường đại học công lập trong bối cảnh hội nhập và phát triển

Đổi mới cơ chế quản lý tài chính đối với các trường đại học công lập có vai trò quan trọng, quyết định và ảnh hưởng mạnh mẽ tới GDĐH trong nước. Sự đổi mới giáo dục đại học bắt buộc phải đổi mới cơ chế quản lý tài chính, đặc biệt là đối với các trường ĐHCL. Theo đó, các yêu cầu đổi mới cơ chế quản lý tài chính đối với các trường ĐHCL như sau:

- Thứ nhất, đổi mới giáo dục đại học công lập theo hướng tự chủ

Triển khai các quy định về quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế:

Triển khai Nghị định 43/2006 của Chính phủ, Bộ GD&ĐT và Bộ Nội Vụ đã ban hành Thông tư liên tịch số 27/2009/TTLT-BGDĐT-BNV ngày 15/04/2009 hướng dẫn thực hiện quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế đối với đơn vị sự nghiệp công lập, và Nghị định số 60/2021/NĐ-CP ngày 21/6/2021 cụ thể như sau:

- Thực hiện nhiệm vụ được giao

Người đứng đầu đơn vị sự nghiệp công lập đã được trao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, đó là:

+ Tự chủ trong tổ chức thực hiện nhiệm vụ, hoạt động liên doanh, liên kết và hợp đồng với các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước về đào tạo, nghiên cứu khoa học, dịch vụ khoa học công nghệ, ký kết và thực hiện các hợp đồng kinh tế;

+ Hợp tác với các cá nhân, tổ chức nước ngoài trong lĩnh vực giáo dục, nghiên cứu khoa học, thực hiện các dự án, đề tài của đơn vị theo quy định của pháp luật nhà nước;


+ Chủ động liên kết, hợp tác với các cơ sở GDĐH ngoài nước để đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, giảng viên, trao đổi sinh viên, giảng viên nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, giảng viên và chất lượng đào tạo;

+ Xây dựng và thực hiện kế hoạch đoàn ra, đoàn vào bằng nguồn thu sự nghiệp, nguồn viện trợ, quà biếu, tặng, cho, các nguồn thu hợp pháp khác của đơn vị theo quy định của pháp luật;

+ Mời chuyên gia nước ngoài đến tham gia giảng dạy, nghiên cứu khoa học tuỳ theo nguồn kinh phí, khả năng tài chính của đơn vị và theo quy định của cơ quan có thẩm quyền; quản lý các chương trình, dự án từ nguồn vốn ODA được đầu tự theo quy định của pháp luật.

- Tổ chức bộ máy, nhân sự

Đơn vị sự nghiệp công lập đã được trao quyền tự chủ về tổ chức bộ máy, biên chế, như sau:

+ Chủ động quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, quyết định thành lập, tổ chức lại, sát nhập, chia, tách, giải thể, đình chỉ hoạt động các khoa, phòng (ban), trung tâm, các tổ chức đơn vị trực thuộc;

+ Tự chủ tuyển dụng, ký hợp đồng làm việc, bổ nhiệm vào ngạch, nâng ngạch, chuyển ngạch, sắp xếp, bố trí, phân công công tác, điều động, biệt phái, tiếp nhận, luân chuyển, nghỉ hưu, thôi việc, chấm dứt hợp đồng làm việc đối với cán bộ, công chức, viên chức thuộc thẩm quyền;

+ Bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, luân chuyển, từ chức, cách chức, miễn nhiệm các chức danh lãnh đạo, quản lý của đơn vị, thực hiện các chính sách nhà nước đối với các cán bộ, công chức, viên chức từ ngạch giảng viên chính và tương đương trở xuống.

+ Được quyết định cử và tiếp cận cán bộ, công chức, viên chức trong đơn vị đi học tập, đào tạo, tham quan, khảo sát ở nước ngoài.

- Thực hiện quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài chính

Hầu hết các cơ sở giáo dục công lập đều đang thực hiện cơ chế tài chính theo Nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006 của Chính phủ quy định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài

Xem tất cả 191 trang.

Ngày đăng: 03/09/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí