Nội Dung Chuyển Dịch Cơ Cấu Kinh Tế Nông Nghiệp Ở Huyện


nghiệp nhằm khai thác hết thế mạnh, tiềm năng của tài nguyên như: đất đai, ao hồ, song rạch,… đồng thời kết hợp chặt chẽ nông – lâm – ngư nghiệp để hỗ trọ nhau phát triển.

1.2.3. Nội dung chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp ở huyện

Hiện nay nền kinh tế nước ta đang trong giai đoạn đẩy mạnh CNH, HĐH và hội nhập quốc tế, do vậy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp ở huyện cũng phải theo hướng CNH, HĐH đất nước. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng CNH, HĐH là chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp theo hướng phát triển nông nghiệp hàng hóa, nâng cao hiệu quả sản xuất và năng suất lao động tương ứng với tiềm năng về sinh thái và khả năng áp dụng công nghệ mới. Trong quá trình đó sẽ diễn ra sự tích tụ ruộng đất, tạo ra nhiều doanh nghiệp sản xuất nông nghiệp lớn, đồng thời giải phóng một bộ phận nông dân khỏi các hoạt động sản xuất nông nghiệp truyền thống, phân tán, quy mô nhỏ, tự túc, tự cấp để tìm kiếm thu nhập cao hơn trong hoạt động phi nông nghiệp, góp phần tạo việc làm, tăng thu nhập và cải thiện đời sống nhân dân,… với những nội dung cụ thể sau đây:

Một là, phát triển nông nghiệp toàn diện, hình thành các vùng tập trung chuyên canh về cây trồng, vật nuôi, phát triển ngành nghề nông thôn, gắn với nhu cầu của thị trường trong nước, khu vực và quốc tế.

Hai là, phát triển giống cây trồng, vật nuôi có năng suất cao, phẩm chất tốt có giá trị kinh tế cao thay thế dần những cây trồng, vật nuôi có năng suất và giá trị thấp trong nội bộ từng phân ngành trồng trọt hoặc chăn nuôi.

Ba là, chuyển dịch bớt lao động, diện tích canh tác từ trồng trọt sang chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản.

Bốn là, thực hiện thuỷ lợi hoá, điện khí hoá, sinh học hoá trên cơ sở điều kiện của mỗi địa phương, mỗi vùng cụ thể để đảm bảo sự phát triển bền vững.


Năm là, phát triển công nghiệp chế biến nông sản hàng hoá với quy mô, trình độ phù hợp ở nông thôn; kết hợp công nghệ truyền thống với công nghệ hiện đại và gắn với vùng nguyên liệu.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 134 trang tài liệu này.

Nông nghiệp là một bộ phận cấu thành trong tổng thể nền kinh tế quốc dân. Sự vận động của nông nghiệp chịu sự tác động của sự vận động chung của nền kinh tế, đồng thời nó tác động trở lại nền kinh tế.

Nông nghiệp là ngành sản xuất ra nông sản thiết yếu (lương thực, thực phẩm,…) cho dân cư, nguyên liệu cho công nghiệp cho sản xuất hàng xuất khẩu và là ngành sản xuất chủ yếu ở nông thôn. Tuy nhiên, tự bản thân nông nghiệp không thể phát triển nhanh được, do đó việc thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ thuần nông sang phát triển tổng hợp: nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ gắn bó với nhau là vấn đề quan trọng, cấp thiết.

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp ở huyện Thạch Thất, thành phố Hà Nội - 4

Xu thế chuyển dịch kinh tế nông nghiệp ở huyện theo xu hướng giảm tỷ trọng (trồng trọt giảm và chăn nuôi tăng), trong khi đó, tỷ trọng lâm nghiệp và ngư nghiệp tăng lên.

1.2.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp ở huyện

Cơ cấu kinh tế nông nghiệp và quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp ở huyện phụ thuộc vào nhiều yếu tố, gồm các nhóm sau:

Nhóm nhân tố tự nhiên

Đây là những nhân tố tiền đề, tạo điều kiện cần thiết để hình thành một cơ cấu kinh tế nông nghiệp nhất định. Nhóm nhân tố này bao gồm vị trí địa lý, đất đai, thời tiết, khí hậu, tài nguyên thiên nhiên (khoáng sản, nguồn nước, rừng, biển...).

C.Mác (1961, trang 48 – 49) viết: "Bất cứ nền sản xuất xã hội nào cũng là việc con người chiếm hữu lấy những đối tượng của tự nhiên trong


phạm vi của một hình thái kinh tế - xã hội nhất định". Quá trình chiếm hữu đó luôn luôn chịu ảnh hưởng bởi yếu tố tự nhiên. Thiên nhiên vừa cung cấp các yếu tố thuận lợi, nhưng cũng gây không ít khó khăn cho quá trình phát triển kinh tế. Quá nhấn mạnh và lệ thuộc tự nhiên hoặc việc coi thường bất chấp tự nhiên đều dẫn đến kém hiệu quả. Bởi vậy, phải chung sống với tự nhiên, tôn trọng tự nhiên, dựa vào sự phát triển của khoa học và công nghệ để lợi dụng tự nhiên và bảo vệ tự nhiên.

Sản xuất nông nghiệp phụ thuộc phần lớn vào tự nhiên và có những đặc điểm riêng, như:

Thứ nhất, sản xuất nông nghiệp được tiến hành trên địa bàn rộng lớn, phức tạp và mang yếu tố khu vực rò rệt. Ở các vùng có điều kiện đất đai, thời tiết, khí hậu, thủy văn khác nhau sẽ thích hợp với các loại cây trồng, vật nuôi khác nhau. Đặc điểm này chi phối và quyết định đến việc bố trí cơ cấu sản xuất sao cho phù hợp với điều kiện tự nhiên để khai thác các nguồn lực và lợi thế ở mỗi vùng. Việc xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, hệ thống các chính sách cũng phải phù hợp, thích hợp với đặc điểm từng vùng thì mới đảm bảo cho sản xuất nông nghiệp tăng trưởng bền vững.

Thứ hai, trong sản xuất nông nghiệp, đất đai là tư liệu sản xuất chủ yếu không thay thế được. Vì vậy phải hết sức tiết kiệm đất đai, chú trọng khai thác cả chiều rộng và chiều sâu. Điều đó ảnh hưởng nhiều đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp. Nó đòi hỏi việc quản lý ruộng đất bằng luật pháp, chính sách phải phù hợp để làm sao vừa đáp ứng yêu cầu sản xuất đủ nông sản cho tiêu dùng và xuất khẩu, vừa có đất để phát triển đô thị, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, các công trình khác, v.v.

Tóm lại, nhóm nhân tố tự nhiên đòi hỏi con người phải có điều tra, khảo sát nghiên cứu để hiểu được tự nhiên, lợi dụng tự nhiên hoặc phòng


tránh tự nhiên trong việc xây dựng cơ cấu kinh tế nông nghiệp cũng như các nhiệm vụ kinh tế - xã hội khác.

Nhóm kinh tế - xã hội

Đây là nhóm nhân tố có ý nghĩa quyết định đối với quá trình hình thành cơ cấu kinh tế nông nghiệp.

Thứ nhất, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất xã hội.

Thực chất cơ cấu kinh tế phản ánh trình độ phân công lao động xã hội, mà trình độ phân công lao động xã hội lại chịu tác động mạnh mẽ, trực tiếp của lực lượng sản xuất. Sự phát triển của lực lượng sản xuất, nhất là những tiến bộ khoa học – công nghệ sẽ làm tăng năng suất lao động xã hội, thúc đẩy mở rộng phân công lao động xã hội. Nhờ đó, cơ cấu kinh tế biến đổi. Vì thế, để thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế phải rất quan tâm đến việc đầu tư cơ sở vật chất, kỹ thuật, nâng cao trình độ áp dụng khoa học – công nghệ để nâng cao trình độ lực lượng sản xuất của từng ngành và từng địa phương cụ thể.

Thứ hai, nhân tố thị trường và nhu cầu nội địa.

Trong kinh tế hàng hoá, thị trường và nhu cầu xã hội (nhu cầu có khả năng thanh toán) là người đặt hàng cho tất cả các lĩnh vực ngành nghề cả về quy mô, cơ cấu sản lượng, chất lượng, giá cả, thời gian và không gian đối với tất cả các hàng hoá. Do đó, đây là nhân tố rất quan trọng quyết định đến xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, mà các chủ thể kinh tế phải quan tâm.

Thứ ba, quan điểm, mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước (Trung ương và địa phương) trong từng giai đoạn.

Cơ cấu kinh tế có tính chất khách quan, lịch sử cụ thể, song quan điểm mục tiêu, chiến lược do Nhà nước hoạch định lại có tác động mạnh mẽ đến việc hình thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể. Nếu quan điểm phát triển kinh tế, mục tiêu, chiến lược phát triển kinh tế -


xã hội mà Nhà nước đặt ra phù hợp với tiềm năng, thế mạnh của đất nước, địa phương; phù hợp với yêu cầu của thị trường trong nước và quốc tế, phản ánh đúng quy luật khách quan của sự phát triển kinh tế, thì sẽ thúc đẩy việc hình thành một cơ cấu kinh tế hiệu quả, cho phép phát huy được lợi thế so sánh của địa phương. Tình hình sẽ ngược lại, nếu quan điểm, mục tiêu và chiến lược phát triển rơi vào tình trạng duy ý chí, thiếu thực tế, không phản ánh đúng tiềm năng, thế mạnh của đất nước, địa phương, không đáp ứng đòi hỏi của xã hội và thị trường.

Trên thực tế, Nhà nước tác động đến quá trình phát triển trên khía cạnh tạo dựng hành lang pháp lý và môi trường xã hội. Nhà nước tác động gián tiếp thông qua định hướng chiến lược, đặt ra các mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội và khuyến khích mọi ngành kinh tế phát triển nhằm đạt các mục tiêu đề ra. Tuy Nhà nước không trực tiếp sắp đặt các ngành nghề, không quy định cụ thể về cơ cấu kinh tế, song thông qua hệ thống pháp luật, các quy định, thể chế, chiến lược phát triển, mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội, Nhà nước có sự điều tiết vĩ mô, dẫn dắt các ngành, lĩnh vực kinh tế phát triển theo định hướng chung, nhằm đảm bảo tính cân đối và đồng bộ của nền kinh tế.

Thứ tư, các chính sách và cơ chế quản lý.

Đây cũng là một nhân tố thuộc về vai trò của Nhà nước (Trung ương và địa phương) đối với quá trình hình thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Một chính sách khuyến khích, hạn chế hoặc ngăn cấm đối với phát triển một lĩnh vực sản xuất, kinh doanh nào đó, đều có tác động tích cực hoặc tiêu cực đến việc hình thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Nếu chính sách không hợp lý có thể dẫn đến một cơ cấu kinh tế kém hiệu quả và kìm hãm sự phát triển nền kinh tế.


Trong sản xuất nông nghiệp, đối tượng của sản xuất là cây trồng và vật nuôi; chúng là những cơ thể sống, có quy luật sinh trưởng và phát triển riêng. Vì vậy, trong quá trình sản xuất và kinh doanh nông nghiệp, cần phải nắm vững quy luật sinh học của từng loại cây, con để có cơ chế quản lý, tổ chức lao động phù hợp, nhằm phát huy lợi thế so sánh của địa phương; đồng thời, chủ động khắc phục những khó khăn do thiên tai, dịch bệnh... gây ra để đảm bảo cho sản xuất phát triển.

Ngoài bốn nhân tố trên, thì cách tổ chức sản xuất, phong tục tập quán, những đặc điểm về lịch sử, văn hoá, truyền thống canh tác và cung cách làm ăn của từng địa phương cũng ảnh hưởng rất lớn đến sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Nếu phương thức sản xuất tiến bộ, truyền thống canh tác và cung cách làm ăn phù hợp với nó sẽ thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực. Trong trường hợp ngược lại, nó sẽ kìm hãm sự xác lập một cơ cấu kinh tế tiến bộ, hợp lý.

Nhóm các nhân tố bên ngoài

Trước hết là xu thế chính trị - xã hội của khu vực và thế giới.

Sự biến động về chính trị, xã hội của các nước, nhất là các nước liên quan đến hoạt động xuất, nhập khẩu, đầu tư của quốc gia hay địa phương sẽ tác động rất lớn đến hoạt động ngoại thương, thu hút vốn đầu tư, chuyển giao công nghệ… của quốc gia; bởi nó làm thay đổi cơ cấu thị trường đầu vào cũng như đầu ra của quá trình sản xuất kinh doanh của quốc gia, cũng như của mỗi địa phương cụ thể. Thông thường, trước những sự biến động đó, các quốc gia, các địa phương phải điều chỉnh chiến lược phát triển và theo đó, cơ cấu kinh tế cũng phải được chuyển dịch cho phù hợp với sự biến động của thị trường thế giới.


Thứ hai, xu thế toàn cầu hoá kinh tế.

Xu thế này mở rộng và làm sâu sắc thêm phân công lao động quốc tế; tạo ra cơ hội để mỗi quốc gia, mỗi địa phương có thể khai thác lợi thế so sánh để phát triển, tạo ra sự đan xen, hợp tác lẫn nhau giữa các quốc gia trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Khi nền kinh tế của quốc gia đã tham gia hội nhập kinh tế, thì đây là nhân tố không thể thiếu trong quá trình xây dựng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế của quốc gia cũng như của từng địa phương; bởi mỗi sự biến động của kinh tế khu vực và thế giới đều có tác động lan chuyền đến nền kinh tế của quốc gia, của mỗi địa phương, ảnh hưởng đến cơ cấu kinh tế hiện hữu.

Trên đây là ba nhân tố cơ bản ảnh hưởng đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung, cơ cấu kinh tế nông nghiệp nói riêng trên phạm vi quốc gia, cũng như trên địa bàn từng địa phương. Mặc dù sự tác động, ảnh hưởng của các nhân tố đó không đều nhau, nhưng đều đòi hỏi quá trình xây dựng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế của mỗi địa phương trong từng thời kỳ lịch sử phải thực sự coi trọng.

1.2.5. Sự cần thiết phải chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp

Sự cần thiết phải chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp ở nước ta hiện nay nói chung, ở từng địa phương nói riêng, xuất phát từ những lý do chủ yếu sau đây:

Một là, xuất phát từ vai trò của sản xuất nông nghiệp.

Trước hết, nông nghiệp cung cấp lương thực thực phẩm cho xã hội.

Nhu cầu ăn là nhu cầu cơ bản, hàng đầu của con người, xã hội có thể thiếu nhiều loại sản phẩm nhưng không thể thiếu lương thực, thực phẩm cho xã hội. Do đó, việc thỏa mãn các nhu cầu về lương thực, thực phẩm trở thành điều kiện khá quan trọng để ổn định xã hội, ổn định kinh tế. Sự phát triển của nông nghiệp có ý nghĩa quyết định đến vấn đề này. Đảm bảo về nhu cầu


lương thực, thực phẩm không chỉ là yêu cầu duy nhất của nông nghiệp, mà còn là cơ sở phát triển các yếu tố khác của đời sống kinh tế - xã hội.

Thứ hai, nông nghiệp cung cấp nguyên liệu để phát triển công nghiệp nhẹ.

Các ngành công nghiệp nhẹ như: chế biến lương thực thực phẩm, chế biến hoa quả, công nghiệp dệt, giấy, đường,… phải dựa vào nguồn nguyên liệu chủ yếu là nông nghiệp. Quy mô, tốc độ tăng trưởng của các nguồn nguyên liệu là nhân tố quan trọng quyết định quy mô, tốc độ tăng trưởng các ngành công nghiệp này.

Thứ ba, nông nghiệp cung cấp một phần vốn để công nghiệp hóa.

Công nghiệp hóa là nhiệm vụ trung tâm trong suốt cả thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Để công nghiệp hóa thành công, đất nược phải giải quyết rất nhiều vấn đề và phải có vốn. Là một nước nông nghiệp, thông qua quá trình xuất khẩu nông sản phẩm, nông nghiệp, nông thôn có thể góp phần giải quyết tốt nhu cầu về vốn cho nền kinh tế.

Thứ tư, nông nghiệp, nông thôn là thị trường quan trọng của các ngành công nghiệp và dịch vụ.

Với những nước lạc hậu, nông nghiệp, nông thôn tập trung phần lớn lao động và dân cư, do đó đây là thị trường quan trọng của công nghiệp và dịch vụ. Nông nghiệp, nông thôn càng phát triển thì nhu cầu về hàng hóa và tư liệu sản xuất như: thiết bị nông nghiệp, điện năng, phân bón, thuốc trừ sâu,… càng tăng, đồng thời các nhu cầu về dịch vụ cho sản xuất nông nghiệp như: vốn, thông tin, giao thông vận tải, thương mại,… cũng càng ngày càng tăng. Mặt khác, sự phát triển của nông nghiệp, nông thôn làm cho mức sống, mức thu nhập của dân cư nông thôn tăng lên và nhu cầu của họ về các loại sản phẩm công nghiệp như ti vi, tủ lạnh, xe máy, vải vóc,… và các nhu cầu về dịch vụ như văn hóa, y tế, giáo dục, dịch vụ, thể thao,… cũng càng ngày càng tăng. Nhu cầu về các loại sản phẩm công nghiệp và dịch vụ của khu tinh tế rộng lớn

Xem tất cả 134 trang.

Ngày đăng: 20/07/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí