Thực Trạng Và Tình Hình Chuyển Dịch Cơ Cấu Kinh Tế Ngành Nông Nghiệp Của Tỉnh Nghệ An Trong 5 Năm Qua


có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng có đóng góp cho GDP của tỉnh và xuất khẩu nhưng tỷ trọng còn rất nhỏ và mới chủ yếu trong lĩnh vực công nghiệp.

* Cơ cấu vùng lãnh thổ:

Cơ cấu kinh tế theo lãnh thổ cũng đang có sự chuyển dịch theo hướng giảm bớt chênh lệch giữa các vùng, mở rộng đô thị, HĐH nông nghiệp, nông thôn.

Khu vực đồng bằng ven biển (gồm 9 huyện, thị, thành): là khu vực có đóng góp lớn nhất cho GDP của tỉnh, tỷ trọng của khu vực này trong GDP đã tăng từ 67,44% năm 2000 lên 72,26% năm 2007. Các hoạt động kinh tế phát triển mạnh ở khu vực này. Lao động cũng tập trung nhiều nhất ở đây. Khu vực này có điều kiện thuận lợi cho việc phát triển các loại cây lương thực, thực phẩm, hình thành các vùng chuyên canh, vùng chuyên môn hoá, tập trung với quy mô lớn, tạo ra khối lượng và giá trị nông sản hàng hoá tương đối nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng cho thị trường nội địa và hướng tới xuất khẩu, đáp ứng nhu cầu nguyên liệu cho công nghiệp chế biến. Phát triển mạnh nuôi trồng thuỷ sản nhằm khai thác tốt những tiềm năng và lợi thế của từng vùng. Hiện nay, ở khu vực này các mô hình nuôi trồng thuỷ sản mang lại giá trị kinh tế cao đã được hình thành và ngày càng phát triển, điển hình là các huyện Diễn Châu, Quỳnh Lưu, Hưng Nguyên, Hưng Hoà (thành phố Vinh), Nghi Lộc, Cửa Lò…

Khu vực miền núi (gồm 10 huyện): tăng trưởng khá hơn do khai thác tốt tiềm năng sẵn có. Khu vực này phù hợp cho việc phát triển các loại hình chăn nuôi và phát triển các loại cây công nghiệp lâu năm, cây ăn quả và phát triển lâm nghiệp. Kinh tế Nông - Lâm nghiệp gắn với chế biến có nhiều tiến bộ, hoạt động khai thác khoáng sản, vật liệu xây dựng phát triển mạnh.

Khu vực đô thị: Quy mô đô thị ngày càng được mở rộng, chất lượng đô thị ngày càng được nâng cao. Đây là nơi tập trung các hoạt động sản xuất công nghiệp và dịch vụ. Hệ thống kết cấu hạ tầng đô thị ngày càng được hoàn


thiện. Nhiều loại hình dịch vụ mới ra đời và phát triển mạnh, đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng của doanh nghiệp và người tiêu dùng.

Khu vực nông thôn: Khu vực này đã có sự thay đổi cơ bản theo hướng sản xuất hàng hoá và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng của lĩnh vực sản xuất phi nông nghiệp. Một số vùng sản xuất cây con tập trung và làng nghề tiểu thủ công nghiệp được hình thành và phát triển. Các hợp tác xã kiểu mới ở nông thôn được thành lập, đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp các dịch vụ tưới tiêu, khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư, cung ứng vật tư kỹ thuật, chuyển giao công nghệ phục vụ sản xuất nông nghiệp. Một số mô hình sản xuất có hiệu quả đã xuất hiện ở nông thôn như mô hình kinh tế trang trại trong trồng trọt và chăn nuôi, mô hình nông - lâm kết hợp, mô hình kinh tế vườn rừng, vườn đồi. Hệ thống kết cấu hạ tầng nông thôn được cải thiện đáng kể trong những năm qua.

Nhìn chung, quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế (về cả cơ cấu ngành, cơ cấu lãnh thổ và cơ cấu thành phần kinh tế) diễn ra đúng hướng, phù hợp với mục tiêu phát triển và tiềm năng, lợi thế của tỉnh nhưng tốc độ chuyển dịch chưa tương xứng với tiềm năng và chưa vững chắc, chuyển dịch cơ cấu trong từng vùng, từng ngành chưa mạnh. Nhiều ngành dịch vụ (nhất là thương mại, dịch vụ, du lịch) chưa phát triển đúng với tiềm năng và cơ hội sẵn có, nguyên nhân chủ yếu là do chưa có đủ các điều kiện cần thiết để phát triển (vốn, cơ sở hạ tầng, tổ chức kinh doanh, cơ chế chính sách, thị trường …). Nhiều tiềm năng du lịch tự nhiên, nhất là du lịch biển chưa được đầu tư khai thác hợp lý do thiếu vốn, làm hạn chế đáng kể mức độ đóng góp của ngành cho GDP của tỉnh và tạo việc làm. Tuy tỷ trọng của khu vực phi nông nghiệp tăng khá (từ 55,7% năm 2000 lên 65,8% năm 2007) nhưng chủ yếu do tăng tỷ trọng giá trị gia tăng của ngành công nghiệp - xây dựng. Quy mô của khu vực sản xuất sản phẩm dịch vụ giảm từ 37,2% xuống 36,3% trong cùng giai đoạn


trong khi lao động dịch vụ tăng nhanh. Mức độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp, nông thôn trong những năm gần đây diễn ra nhanh hơn nhưng vẫn còn nhiều tiềm năng trong nông nghiệp và công nghiệp chế biến chưa được khai thác. Tỷ trọng giá trị sản xuất trồng trọt trong tổng giá trị sản xuất nông nghiệp thuần còn cao. Dịch vụ nông nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng nhỏ.

2.3.2 Thực trạng và tình hình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp của tỉnh Nghệ An trong 5 năm qua

2.3.2.1. Cơ cấu kinh tế nông nghiệp trong mối quan hệ giữa nông nghiệp, lâm nghiệp và thuỷ sản

Giá trị sản xuất ngành nông - lâm - thuỷ sản tăng trưởng liên tục qua các năm, đạt bình quân 5,52%/năm trong cả thời kỳ 1996 - 2005, và năm 2007 tốc độ tăng trưởng toàn ngành đạt 3,36%, vượt kế hoạch 5% (cả nước 3,25%), so với năm 2006. Các tốc độ này đều cao hơn mức bình quân của vùng và cả nước.

Bảng 2.5. Giá trị sản xuất và cơ cấu kinh tế các ngành sản xuất

nông - lâm - thuỷ sản tỉnh Nghệ An


Chỉ tiêu

ĐVT

2003

2004

2005

2006

2007

Tổng giá trị

Tr.đ

6.786.988

8.462.886

9.128.041

10.277.323

12.345.096

1. GTSX ngành NN

Cơ cấu

Tr.đ

%

5.469.736

80,59

7.027.450

83,04

7.479.661

81,94

8.485.675

82,57

9.876.077

80,00

2.GTSX ngành LN

Cơ cấu

Tr.đ

%

752.741

11,09

810.689

9,58

848.805

9,30

896.444

8,72

1.357.960

11,00

3.GTSX ngành T. sản Cơ cấu

Tr.đ

%

564.511

8,32

624.747

7,38

799.575

8,76

895.204

8,71

1.111.058

9,00

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 137 trang tài liệu này.

Giải pháp chủ yếu chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa của tỉnh Nghệ An - 8

Nguồn: Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Nghệ An

Số liệu thống kê ở bảng 2.5 cho thấy, nông nghiệp thuần vẫn chiếm tỷ trọng lớn nhất trong toàn ngành nông nghiệp và ngày càng tăng trong những


năm qua. Năm 2003 tỷ trọng ngành sản xuất nông nghiệp thuần là 80,59% thì đến năm 2007 tỷ trọng là 80%. Tuy năm 2007 có giảm về tỷ trọng so với các năm trước nhưng giá trị sản xuất của ngành vẫn tăng lên là do sự gia tăng tương ứng về GTSX của các ngành lâm nghiệp và thuỷ sản.

Lâm nghiệp cũng chiếm một tỷ trọng tương đối trong toàn ngành, nhưng chúng ta thấy cơ cấu ngành lâm nghiệp giảm dần qua các năm mặc dù giá trị sản xuất của ngành vẫn tăng đều qua các năm.

Về thuỷ sản cho thấy ngành nuôi trồng, khai thác và chế biến thuỷ sản tăng đều trong 5 năm qua cả về giá trị sản xuất và cơ cấu của ngành. Trong những năm qua ngành thuỷ sản đã có những đóng góp to lớn vào GDP của tỉnh nói chung và của ngành trồng trọt nói riêng.

Dịch vụ trong nông nghiệp phát triển mạnh trong những năm qua, nhất là công nghiệp chế biến các sản phẩm nông nghiệp và thuỷ sản.

Qua số liệu trên chúng ta thấy nông nghiệp tỉnh Nghệ An đã có những bước phát triển khá, cơ cấu ngành nông nghiệp đã có sự chuyển dịch đúng hướng, chuyển dịch theo hướng CNH, HĐH và theo hướng sản xuất hàng hoá là chủ yếu, mang lại giá trị kinh tế cao và đóng góp không nhỏ vào sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh nói chung và phát triển nông nghiệp, nông thôn Nghệ An nói riêng. Trong đó đáng chú ý là tỷ trọng ngành thuỷ sản trong năm 2007 tăng lên 9%, đây là một trong những ngành mang lại giá trị kinh tế cao của tỉnh Nghệ An, đồng thời là ngành có khả năng tạo ra khối lượng và giá trị hàng hoá lớn, tăng giá trị xuất khẩu. CCKT nông nghiệp tỉnh Nghệ An trong những năm qua phần nào đã thể hiện được tính năng động, thích ứng với các điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của tỉnh và nhu cầu của thị trường, mặt khác ngành nông nghiệp của tỉnh đã bước đầu xác định mục tiêu sản xuất nên sản xuất những gì người tiêu dùng cần nhằm thoả mãn tốt nhất nhu cầu của thị trường và của người tiêu dùng, góp phần quan trọng vào việc thay đổi bộ mặt


nông thôn, nâng cao mức sống của dân cư ở khu vực nông thôn, đồng thời tận dụng và phát huy một cách tốt nhất tiềm năng và lợi thế so sánh của các tiểu vùng và của tỉnh.

Nếu xét theo từng phân ngành trong nông nghiệp thuần thì tỷ trọng trồng trọt giảm, tỷ trọng ngành chăn nuôi tăng (tương ứng là 63,38% và 35,20%). Trong năm 2007 tỷ trọng ngành chăn nuôi của tỉnh/trồng trọt cả nước là 25,0%/75,0% và tỷ trọng nông nghiệp/tổng GDP là 31,03% [24]

2.3.2.2. Cơ cấu kinh tế nông nghiệp thuần và chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp thuần

Trong những năm qua hoà chung với cả nước, Nghệ An tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện công cuộc CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn và đạt được những kết quả nhất định. Cơ cấu kinh tế nông nghiệp chuyển dịch đúng hướng, tốc độ tăng trưởng của ngành nông nghiệp đạt tương đối khá. Trong nông nghiệp thuần, tỷ trọng trồng trọt giảm, tỷ trọng chăn nuôi và dịch vụ tăng khá. Năm 2007, trồng trọt 63,38%, chăn nuôi 35,20%, dịch vụ 1,42%, sự thay đổi về cơ cấu trong sản xuất nông nghiệp trong những năm qua là do tỉnh đã có sự quan tâm, đầu tư để phát triển nông nghiệp phù hợp với tiềm năng, lợi thế của từng vùng trong tỉnh.

Biểu đồ 2.2: Cơ cấu giá trị sản xuất nông nghiệp thuần theo giá thực tế

Năm 2006 Năm 2007


1,36% 1,42%

33,28%

65,36%

35,20%

63,38%

Trồng trọt Chăn nuôi Dịch vụ NN Nguồn: Niên giám thống kê Nghệ An


Sự hợp lý về cơ cấu trong sản xuất nông nghiệp thể hiện cụ thể thông qua việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi phù hợp trên từng đại bàn của từng địa phương trong tỉnh.

Như vậy xét về cơ cấu, ngành trồng trọt của tỉnh Nghệ An vẫn chiếm vị trí hàng đầu trong ngành sản xuất nông nghiệp, chiếm khoảng 63% giá trị sản xuất toàn ngành, tiếp đó là ngành chăn nuôi với khoảng 35% giá trị toàn ngành và cuối cùng là dịch vụ phục vụ trong nông nghiệp chiếm khoảng 2% giá trị toàn ngành.

Ngành trồng trọt tuy có giảm về cơ cấu nhưng lại tăng lên về giá trị sản lượng, do trong nhiều năm qua trên địa bàn tỉnh đã thực hiện tốt các đề án chuyển đổi cây trồng, vật nuôi phù hợp nên giá trị sản xuất trong nông nghiệp tăng mạnh. Giá trị sản xuất ngành trồng trọt tăng là do tỉnh đã có sự quan tâm đầu tư trong phát triển ngành trồng trọt theo hướng hình thành các vùng sản xuất tập trung, quy mô lớn và đầu tư vào các loại cây trồng có giá trị kinh tế và hiệu quả cao. Với mục tiêu hình thành những cánh đồng có thu nhập cao từ 25- 30,8 triệu đồng/ha/năm đến 60- 70 triệu đồng/ha/năm, tỉnh đã đầu tư và phát triển các loại cây trồng có hiệu quả kinh tế cao, phá thế độc canh trong nông nghiệp, áp dụng các công thức luân canh cây trồng phù hợp với điều kiện tự nhiên của tỉnh làm tăng hiệu quả kinh tế trên 1 đơn vị diện tích đất.

* Thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành trồng trọt

Sản xuất trồng trọt liên tục phát triển với tốc độ tăng bình quân 4,81%/năm trong 10 năm qua. Bước đầu đã hình thành một số vùng cây nguyên liệu tập trung gắn với công nghiệp chế biến, tạo nên một khối lượng nông sản hàng hoá tương đối khá, đáp ứng nhu cầu trong tỉnh và phục vụ xuất khẩu. Sản lượng lương thực liên tục tăng qua các năm, năm 2005 đạt

1,04 triệu tấn, cao hơn so với mục tiêu đề ra (90 vạn tấn), năm 2006 đạt 1,14 triệu tấn và năm 2007 đạt 1,05 triệu tấn, so với kế hoạch giảm 90.386 tấn,


bằng 7,9% so với năm 2006. Sản lượng lương thực bình quân đầu người đạt 347,45 kg/người/năm.

Bảng 2.6. Giá trị sản xuất và cơ cấu các loại cây trồng của tỉnh Nghệ An


Chỉ tiêu

ĐVT

2003

2004

2005

2006

2007

Tổng số

Tr. đ

3.634.639

4.603.682

4.693.373

5.546.416

6.262.386

1. Cây lương thực







- GTSX

Tr. đ

2.168.877

2.734.571

2.769.118

3.234.694

3.591.478

- Cơ cấu

%

59,67

59,39

59,00

58,32

57,35

Trong đú:







Còy lỳa







- GTSX

Tr. đ

1.659.835

2.031.802

2.025.811

2.390.457

2.650.241

- Cơ cấu

%

45,67

44,13

43,16

43,10

42,32

2.Còy thực phẩm







- GTSX

Tr. đ

237.218

368.010

366.170

452.296

521.030

- Cơ cấu

%

6,52

7,99

7,80

8,15

8,32

3. Còy CN







- GTSX

Tr. đ

534.464

686.223

685.971

847.314

966.286

- Cơ cấu

%

14,70

14,90

14,61

15,27

15,43

4.Còy ăn quả







- GTSX

Tr. đ

339.588

392.586

445.585

528.018

614.340

- Cơ cấu

%

9,34

8,52

9,49

9,51

9,81

5. Còy dược liệu







- GTSX

Tr. đ

271

394

413

453

1.254

- Cơ cấu

%

0,07

0,08

0,09

0,08

0,02

6. Còy khỏc







- GTSX

Tr. đ

354.221

421.898

426.116

483.641

567.998

- Cơ cấu

%

9,70

9,12

9,01

8,67

9,07

Nguồn: Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Nghệ An


Cơ cấu cây trồng và cơ cấu mùa vụ được chuyển dịch đúng hướng, diện tích lúa giảm, diện tích ngô tăng, nhất là ngô vụ đông trên đất hai lúa. Sản lượng lúa tăng đều qua các năm mặc dù diện tích giảm nhờ năng suất tăng nhanh, năm 2006 đạt trên 911 nghìn tấn, năm 2007 đạt 846 nghìn tấn. Sản lượng ngô tăng nhanh qua các năm do diện tích và năng suất ngô đều tăng nhanh (bình quân 18,06%/năm cả thời kỳ 10 năm 1996 - 2005) năm 2007 đạt trên 206 nghìn tấn.

Đã hình thành một số vùng sản xuất tập trung cây công nghiệp, cây ăn quả và một số cây hàng năm với quy mô lớn: sắn trên 15.000 ha (trong đó sắn vùng nguyên liệu chế biến trên 4.000 ha), mía trên 26.000 ha; lạc trên 24.000 ha, năng suất 21,69 tạ/ha, về diện tích tăng 1.118 ha, năng suất tăng 2 tạ/ha, sản lượng tăng trên 7.000 tấn so với năm 2006, đây là năm có diện tích, năng suất và sản lượng lạc đạt cao nhất từ trước tới nay ở Nghệ An; dứa 1.752 ha, cam trên 3.000 ha, nhãn trên 1.500 ha, vải 751 ha, chè trên 5.000 ha, cà phê

2.000 ha, cao su 4.000 ha, hồ tiêu 331 ha. Việc phát triển sản xuất các loại cây công nghiệp đã gắn với xây dựng các cơ sở chế biến, tạo khối lượng hàng hoá xuất khẩu khá.

Bên cạnh đó, diện tích và năng suất các loại rau đậu thực phẩm cũng phát triển mạnh qua các năm, cung cấp một lượng rau đậu khá lớn đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trên điạ bàn tỉnh và các tỉnh lân cận. Cùng với sự quan tâm đầu tư, hướng dẫn của tỉnh qua các đề án chuyển đổi cơ cấu cây trồng và nhận thức của người dân ngày càng được nâng cao, nông nghiệp tỉnh Nghệ An ngày càng phát triển và khai thác tốt các tiềm năng sẵn có để phục vụ cho sản xuất nông nghiệp đạt hiệu quả cao. Như vậy trong 5 năm qua, sản xuất trồng trọt của Nghệ An liên tục tăng cả về sản lượng và giá trị sản xuất của các loại cây trồng, cơ cấu cây trồng tương đối phù hợp với đặc điểm, điều kiện sản xuất của từng vùng, địa phương. Các vùng sản xuất tập trung tạo ra khối

Xem tất cả 137 trang.

Ngày đăng: 20/06/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí