Chuyển Dịch Cơ Cấu Kinh Tế Và Chuyển Dịch Cơ Cấu Kinh Tế Nông Nghiệp


Cơ cấu kinh tế nông nghiệp là sản phẩm của phân công lao động xã hội. Phân công lao động xã hội diễn ra liên tục và phát triển cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất xã hội. Phân công lao động xã hội gồm hai hình thức cơ bản: Phân công lao động xã hội theo ngành và phân công lao động xã hội theo lãnh thổ. Hai hình thức cơ bản của phân công lao động xã hội đó gắn bó với nhau. Sự phát triển của phân công lao động xã hội theo ngành kéo theo sự phát triển của phân công lao động xã hội theo lãnh thổ, ngược lại mỗi bước tiến của phân công lao động xã hội theo lãnh thổ lại góp phần quan trọng cho bước phát triển mới cho phân công lao động xã hội theo ngành. Sự phát triển đó là thước đo trình độ phát triển chung của mỗi dân tộc. Phân công lao động xã hội và chế độ sở hữu tạo ra cơ cấu các thành phần kinh tế. Cơ cấu kinh tế hợp lý sẽ thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất, làm cho người sản xuất kinh doanh năng động hơn, cho phép khai thác các tiềm năng và lợi thế có hiệu quả hơn [4]. Như vậy xét trên tổng thể cơ cấu kinh tế nông nghiệp bao gồm: Cơ cấu ngành, Cơ cấu vùng lãnh thổ, Cơ cấu thành phần kinh tế và Cơ cấu kỹ thuật.

- Cơ cấu kinh tế nông nghiệp - nông thôn theo ngành

Cơ cấu ngành kinh tế nông nghiệp - nông thôn thể hiện các mối quan hệ tỷ lệ giữa các ngành trong nông thôn: Nông nghiệp (theo nghĩa rộng), Công nghiệp và dịch vụ nông nghiệp. Trong từng ngành lớn lại có các phân ngành. Nông nghiệp (theo nghĩa rộng) là tổ hợp các ngành gắn liền với các quá trình sinh học gồm: nông nghiệp, lâm nghiệp và thuỷ sản. Trên cơ sở sự phát triển của phân công lao động xã hội trong quá trình sản xuất và công nghiệp hoá, các ngành đó được hình thành và ngày càng phát triển cho phép tách sản xuất của các nhóm sản phẩm và các sản phẩm thành ngành kinh tế cụ thể tương đối độc lập với nhau nhưng lại gắn bó mật thiết với nhau.


Nông nghiệp theo nghĩa hẹp bao gồm các ngành: trồng trọt, chăn nuôi và dịch vụ phục vụ nông nghiệp. Trong trồng trọt lại phân ra: Trồng cây lương thực, cây công nghiệp, cây ăn quả, cây cảnh …. Ngành chăn nuôi gồm có: chăn nuôi gia súc, gia cầm, nuôi thuỷ, hải sản…. Những ngành trên được phân ra thành những ngành nhỏ hơn. Chúng có mối quan hệ mật thiết với nhau trong quá trình phát triển tạo thành cơ cấu kinh tế nông nghiệp.

Phát triển ngành lâm nghiệp và giải quyết mối quan hệ hợp lý giữa nông nghiệp với lâm nghiệp, giữa lâm nghiệp với công nghiệp nông thôn là yêu cầu khách quan của sự phát triển kinh tế nông thôn.

Ngành thuỷ sản là một ngành kinh tế quan trọng cấu thành kinh tế nông nghiệp - nông thôn ở nước ta. Ngành thuỷ sản bao gồm: nuôi trồng, khai thác, đánh bắt và chế biến thuỷ hải sản. Đó là một ngành kinh tế có lợi thế để phát triển, góp phần tích cực vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp

- nông thôn theo hướng kết hợp nuôi trồng thuỷ đặc sản với nông nghiệp, lâm nghiệp, công nghiệp chế biến và bảo vệ môi trường sinh thái.

Công nghiệp nông thôn là một bộ phận của công nghiệp cả nước, đồng thời là bộ phận cấu thành kinh tế lãnh thổ. Sau cuộc phân công lao động xã hội lần thứ 2, công nghiệp tách khỏi nông nghiệp và dần trở thành ngành độc lập. Công nghiệp phục vụ nông nghiệp gắn bó chặt chẽ và tác động qua lại với nông nghiệp và sự phát triển kinh tế - xã hội nông thôn. Công nghiệp phục vụ nông nghiệp cùng với các ngành kinh tế trong nông nghiệp gắn bó với nhau trong quá trình phát triển và tạo thành một cơ cấu kinh tế nông nghiệp thống nhất. Phát triển công nghiệp trong nông nghiệp có ý nghĩa về nhiều mặt: góp phần tích cực vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng CNH, HĐH và phát triển sản xuất hàng hoá, tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động và tăng thu nhập, sử dụng hợp lý và nâng cao hiệu quả của các nguồn lực ở nông thôn; thúc đẩy kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nông

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 137 trang tài liệu này.


thôn phát triển nhanh; góp phần phân bố hợp lý lực lượng lao động, thu hẹp khoảng cách về mức sống giữa thành thị và nông thôn.

Giải pháp chủ yếu chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa của tỉnh Nghệ An - 3

Dịch vụ là ngành kinh tế ra đời và phát triển gắn liền với sự phát triển kinh tế Quốc dân và nâng cao mức sống nhân dân. Dịch vụ nông nghiệp xét theo quan điểm hệ thống là một bộ phận thuộc ngành dịch vụ của cả nước, đồng thời là một bộ phận cấu thành kinh tế nông nghiệp - nông thôn gắn liền với tiến trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, dịch vụ nông nghiệp cũng ngày càng phát triển với nhiều chủng loại phong phú cả trong dịch vụ sản xuất và dịch vụ đời sống. Như vậy dịch vụ nông nghiệp phát triển là đòi hỏi khách quan của sản xuất và nâng cao mức sống dân cư nông thôn. Sự phát triển của dịch vụ nông nghiệp làm cho hoạt động kinh tế ở nông thôn ngày càng phong phú và đa dạng, thúc đẩy sự phát triển của các ngành kinh tế khác ở nông thôn, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp đạt hiệu quả cao. Trong nội bộ ngành nông nghiệp, cơ cấu kinh tế biểu hiện mối quan hệ tỷ lệ giữa trồng trọt, chăn nuôi và dịch vụ phục vụ nông nghiệp. Đây là mối quan hệ phản ánh sự phát triển một cách toàn diện nhằm đạt hiệu quả cao của sản xuất kinh doanh nông nghiệp. Ngoài ra cơ cấu kinh tế nội bộ ngành nông nghiệp còn biểu hiện mối quan hệ giữa sản xuất nguyên liệu nông sản và chế biến

- Cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp - nông thôn theo vùng lãnh thổ

Ở mỗi Quốc gia, trên cơ sở những điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội, quá trình phát triển các vùng kinh tế sinh thái được hình thành và phát triển. Cơ cấu ngành và cơ cấu vùng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, cơ cấu vùng là nhân tố hàng đầu để tăng trưởng và phát triển bền vững các ngành kinh tế nông nghiệp- nông thôn được phân bố ở vùng. Mục đích của việc xác lập cơ cấu kinh tế vùng một cách hợp lý là bố trí các ngành theo lãnh thổ vùng sao cho thích hợp và sử dụng có hiệu quả các tiềm năng lợi thế của từng vùng. Như vậy để phát triển các ngành bố trí trên mỗi vùng nhằm phát huy tiềm


năng và thế mạnh của vùng, tạo ra nhiều sản phẩm hàng hoá đòi hỏi phải phát triển mạnh công nghiệp nông thôn và dịch vụ trong nông nghiệp, giải quyết hợp lý mối quan hệ giữa nông nghiệp (theo nghĩa hẹp) với công nghiệp và dịch vụ trong nông nghiệp, trước hết là quan hệ giữa sản xuất và chế biến, giữa yêu cầu của sản xuất và chế biến với việc ứng dụng rộng rãi tiến bộ khoa học - kỹ thuật và công nghệ mới, giữa sản xuất chế biến với dịch vụ đầu vào cũng như tiêu thụ sản phẩm.

- Cơ cấu kinh tế nông nghiệp - nông thôn theo thành phần kinh tế

Các thành phần kinh tế ở nông nghiệp - nông thôn ra đời và phát triển là tuỳ thuộc vào đặc thù của mỗi ngành và do yêu cầu của sản xuất và nâng cao đời sống của dân cư nông thôn. Trên cơ sở yêu cầu và khả năng phát triển sản xuất, mở rộng thị trường, các thành phần hợp tác với nhau, kết hợp và đan xen với nhau một cách đa dạng với nhiều loại quy mô trình độ và hình thức khác nhau. Tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh nông nghiệp có nhiều thành phần kinh tế như: kinh tế Nhà nước; kinh tế tập thể; kinh tế cá thể, tiểu chủ; kinh tế hộ gia đình..., trong đó kinh tế hộ nông dân tự chủ là đơn vị sản xuất kinh doanh chính, là lực lượng chủ yếu trực tiếp tạo ra các sản phẩm nông- lâm- thuỷ sản cho nền kinh tế Quốc dân.

- Cơ cấu kỹ thuật trong nông nghiệp

Trước sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ đã tác động mạnh vào nông nghiệp - nông thôn, phá vỡ tính cổ truyền, lạc hậu, trì trệ, phân tán, manh mún, phá vỡ tính bảo thủ. Những tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ mới từng bước được hoà nhập vào nông nghiệp, tỷ lệ thuần nông giảm nhanh, nông nghiệp - nông thôn và đô thị xích lại gần nhau hơn; cơ khí hoá và điện khí hoá nông nghiệp - nông thôn, phát triển mạnh mạng lưới giao thông nông thôn, phát triển mạnh công nghiệp chế biến nông sản là điều kiện để thực hiện CNH - HĐH nông nghiệp, nông thôn


có hiệu quả và là tiền đề để phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá bền vững.

1.1.1.2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế là sự biến đổi về vị trí, vai trò, tỷ trọng và tính cân đối vốn có giữa các yếu tố, các bộ phận của ngành, các vùng, các thành phần kinh tế cho phù hợp với điều kiện lịch sử, kinh tế - xã hội và điều kiện tự nhiên của một nước trong một giai đoạn nhất định.

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế là một quá trình phức tạp, lâu dài, thậm chí rất khó khăn nhưng trong quá trình chuyển dịch đó các mối quan hệ cũ dần được cải biến theo những tỷ lệ phù hợp trong tất cả các ngành kinh tế cũng như trong nội bộ một ngành kinh tế. Thông thường chuyển dịch cơ cấu kinh tế chung diễn ra trước, sau đó mới đòi hỏi sự chuyển dịch trong nội bộ từng ngành.

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp là quá trình làm biến đổi cấu trúc và các mối quan hệ tương tác trong hệ thống theo những định hướng và mục tiêu nhất định, nghĩa là đưa hệ thống đó từ một trạng thái nhất định tới trạng thái phát triển tối ưu để đạt được hiệu quả mong muốn, thông qua sự điều khiển có ý thức của con người, trên cơ sở vận dụng đúng đắn các quy luật khách quan.

1.1.2. Sản xuất hàng hoá và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá

1.1.2.1. Hàng hoá và sản xuất hàng hoá

* Hàng hoá

Hàng hoá là sản phẩm của lao động có thể thoả mãn một nhu cầu nào đó của con người và dùng để trao đổi với nhau. Hàng hoá có hai thuộc tính: Giá trị và giá trị sử dụng [4]

Như vậy một sản phẩm sản xuất ra được đem trao đổi thì được coi là hàng hoá, và muốn trao đổi được thì hàng hoá đó phải có một giá trị nhất định


(giá trị của hàng hoá), sản phẩm đó phải đáp ứng nhu cầu của người sử dụng (giá trị sử dụng). Sản phẩm, hàng hoá trao đổi trên thị trường chịu sự chi phối của hai quy luật: Quy luật cung cầu và Quy luật cạnh tranh.

* Sản xuất hàng hoá

Sản xuất hàng hoá đánh dấu một mốc quan trọng trong tiến trình phát triển kinh tế của mỗi nước. So với nền kinh tế tự nhiên, tự cung, tự cấp, kinh tế hàng hoá có những ưu việt nổi bật. Trong nền sản xuất hàng hoá, sản phẩm sản xuất ra là để bán nên nó chịu sự chi phối của các quy luật giá trị, quy luật cung cầu và quy luật cạnh tranh, buộc các tập thể sản xuất, người sản xuất phải tổ chức lại sản xuất, cải tiến kỹ thuật, tăng năng suất và chất lượng sản phẩm, hạ giá thành sản phẩm, thay đổi mẫu mã cho phù hợp với nhu cầu tiêu dùng của xã hội. Từ đó thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, đẩy nhanh quá trình xã hội hoá sản xuất và càng tạo điều kiện cho nền sản xuất CNH - HĐH ra đời.

Kinh tế hàng hoá ra đời và tồn tại trong nhiều hình thái kinh tế - xã hội gắn liền với hai điều kiện: Sự phân công lao động xã hội và các hình thức sở hữu. Phân công lao động xã hội ngày càng phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu (Hợp tác kinh tế Quốc tế và khu vực, thị trường chung, hội nhập kinh tế, WTO…). Hình thức sở hữu cũng được thay đổi để phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất.

Sự chuyên môn hoá và phân công hợp tác Quốc tế đã trở thành một yêu cầu tất yếu ngay cả trong sản xuất nông nghiệp. Ở nước ta, kinh tế hàng hoá đã ra đời nhưng vẫn ở dạng sản xuất hàng hoá nhỏ và đang từng bước thúc đẩy kinh tế hàng hoá phát triển theo chiến lược kinh tế mở: đưa nhanh cách mạng khoa học kỹ thuật hiện đại làm cho trình độ xã hội hoá sản xuất ngày càng được mở rộng. Sản xuất hàng hoá không chỉ dựa trên điều kiện tự nhiên, kinh tế, kỹ thuật mà đã tính đến khả năng liên kết quốc tế. Chính sự giao lưu


và hợp tác quốc tế đã làm cho kinh tế hàng hoá của nước ta có những bước phát triển mới.

* Tỷ suất nông sản hàng hoá

Để đo lường trình độ sản xuất và trao đổi hàng hoá có thể dùng chỉ tiêu “tỷ suất nông sản hàng hoá”. Tỷ suất nông sản hàng hoá là tỷ lệ phần trăm giữa tổng lượng nông sản hàng hoá với tổng lượng nông sản phẩm sản xuất ra.

1.1.2.2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá

Cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo nghĩa hẹp thường gắn với cách nhìn nhận từ góc độ của nội bộ ngành nông nghiệp như quan hệ giữa trồng trọt và chăn nuôi; mối quan hệ giữa khai thác, chế biến lâm sản với trồng và tu bổ rừng.

Kinh tế nông nghiệp là một chu trình khép kín mà các khâu của quá trình tái sản xuất liên quan chặt chẽ với nhau từ sản xuất đến chế biến và dịch vụ. Vì vậy, cơ cấu kinh tế nông nghiệp còn cần được hiểu trong mối quan hệ giữa sản xuất, chế biến và dịch vụ phục vụ nông nghiệp. Do đó, cơ cấu kinh tế nông nghiệp phản ánh các mối quan hệ được xác lập theo một tỷ lệ cân đối cả về số lượng và chất lượng giữa các khâu của quá trình tái sản xuất nông nghiệp. Trong đó, khâu sản xuất nông nghiệp là khâu quyết định, nhưng khâu chế biến cũng rất quan trọng, vì nó làm tăng giá trị của sản phẩm nông nghiệp, với tư cách là cầu nối giữa sản xuất và chế biến, dịch vụ vừa cung cấp lại vừa là nơi tiêu thụ sản phẩm cho người sản xuất và người chế biến. Duy trì các mối quan hệ tỷ lệ giữa sản xuất - chế biến - dịch vụ không những đảm bảo cho sản xuất nông nghiệp diễn ra bình thường mà còn làm tăng giá trị tổng sản lượng nông nghiệp, tăng giá trị sản xuất hàng hóa và nhất là tăng giá trị nông sản xuất khẩu [10].

Để đánh giá được hiệu quả của việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp phải sử dụng một hệ thống các chỉ tiêu như: Cơ cấu GDP, cơ cấu lao động, cơ cấu vốn đầu tư, cơ cấu sử dụng đất, năng suất cây trồng, vật nuôi,


năng suất lao động … Để đánh giá quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá cần sử dụng chỉ tiêu tỷ suất nông sản hàng hoá và các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả kinh tế trong sản xuất nông nghiệp. Căn cứ vào mục tiêu, phạm vi nghiên cứu và nguồn tài liệu cho phép mà lựa chọn chỉ tiêu phù hợp để phân tích làm rò vấn đề cần nghiên cứu. Tính quy luật của sự biến đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp: Tỷ trọng nông nghiệp trong GDP giảm, số người lao động trong khu vực sản xuất lương thực giảm tương đối và tuyệt đối.

* Sự cần thiết phải chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá và phát triển bền vững

- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá nhằm đáp ứng sự phát triển của nền kinh tế thị trường, phù hợp với nhu cầu của người tiêu dùng và xu thế phát triển kinh tế hội nhập quốc tế.

Thực trạng kém phát triển của nền kinh tế nước ta trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, ngành nông nghiệp đang phải hứng chịu và đối mặt với nhiều thách thức, bởi vì trong nền kinh tế thị trường thì thị trường luôn là yếu tố quyết định cho sự phát triển kinh tế và đặc biệt nó sẽ ảnh hưởng quyết định đến việc hình thành và biến đổi cơ cấu kinh tế nói chung và cơ cấu nông nghiệp nói riêng. Trong khi xã hội không ngừng phát triển, nhu cầu của con người về nông phẩm theo đó cũng tăng lên cả về số lượng, chất lượng, chủng loại, giá cả… Chính yêu cầu đòi hỏi của thị trường, buộc sản xuất phải đáp ứng, dẫn tới yêu cầu đa dạng hoá sản phẩm và dịch vụ. Thị trường và nhu cầu càng phát triển thì cơ cấu kinh tế nông nghiệp càng phải biến đổi phong phú và đa dạng hơn. Đương nhiên, nền kinh tế thị trường có thể thừa nhận những cơ cấu kinh tế hiệu quả, nghĩa là cơ cấu đó có khả năng đem lại lợi nhuận và thu nhập cao nhất cho người sản xuất.

Xem tất cả 137 trang.

Ngày đăng: 20/06/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí