Nâng Cao Khả Năng Ứng Dụng Công Nghệ Thông Tin Trong Cả Xử Lý Giao Dịch Lẫn Quản Lý, Điều Hành


- Đa dạng hoá sản phẩm, dịch vụ ngân hàng gắn với nâng cao chất lượng và tiện ích của sản phẩm, dịch vụ ngân hàng phù hợp với nhu cầu của khách hàng. Tập trung phát triển và nâng cao chất lượng các sản phẩm huy động vốn, tín dụng và dịch vụ phi tín dụng. Hạn chế tập trung rủi ro vào hoạt động tín dụng trên cơ sở đa dạng hoá hoạt động và sản phẩm, dịch vụ. Đẩy mạnh phát triển sản phẩm mới trên cơ sở công nghệ tiên tiến.

- Chuẩn hoá các quy trình, thủ tục quản lý và tác nghiệp theo hướng đồng bộ, hiện đại, tự động hoá và tích hợp tập trung.

- Mở rộng quy mô hoạt động đi đôi với tăng cường năng lực kiểm tra, quản lý rủi ro, bảo đảm an toàn và hiệu quả kinh doanh. Phát triển hệ thống thông tin tập trung và quản lý rủi ro độc lập, tập trung toàn hệ thống để tăng cường vai trò điều hành kinh doanh, kiểm sát và quản lý rủi ro của Hội sở chính các NHTM. Tách bạch hoạt động quản lý rủi ro với hoạt động giao dịch, kinh doanh của ngân hàng. Phát triển các hệ thống vững chắc: Quản lý rủi ro, Quản lý tín dụng, Quản lý tài sản nợ/tài sản có, Quản lý tài chính-kế toán và chi tiêu nội bộ, Quản lý nhân lực, Quản lý thanh toán và bù trừ, Quản lý công nghệ, Quản lý chiến lược kinh doanh, Hệ thống thông tin quản lý nội bộ (MIS), Ban Quản lý tài sản có/tài sản nợ, Hệ thống kiểm tra kiểm soát nội bộ.

3.2.2.2 Tăng cường năng lực tài chính

- Tăng vốn tự có của các NHTM bằng lợi nhuận để lại; phát hành cổ phiếu, trái phiếu; sáp nhập; hợp nhất; mua lại. Bảo đảm duy trì vốn tự có của các TCTD phù hợp với quy mô tài sản có và mức độ rủi ro của tài sản trên cơ sở thực hiện tỷ lệ đảm bảo an toàn vốn tối thiểu 8%.

- Nâng cao chất lượng tài sản có và khả năng sinh lời; giảm tỷ trọng tài sản có rủi ro trong tổng tài sản có. Xử lý dứt điểm nợ tồn đọng và làm sạch bảng cân đối của các NHTM. Xây dựng cơ chế ngăn ngừa, phát hiện sớm và quy trình xử lý nợ xấu.

3.2.2.3 Nâng cao khả năng ứng dụng công nghệ thông tin trong cả xử lý giao dịch lẫn quản lý, điều hành


- Thực hiện hiện địa hoá hệ thống công nghệ ngân hàng theo những bước đi tuần tự kết hợp nhảy vọt, đi thẳng vào công nghệ ngân hàng hiện đại.

- Tiếp cạnh nhanh, vận hành có hiệu quả và làm chủ được các ứng dụng công nghệ ngân hàng tiên tiến trong lĩnh vực thanh toán, quản trị rủi ro, quản trị kinh doanh, phát triển dịch vụ ngân hàng, kế toán – tài chính, thanh tra – giám sát và các nghiệp vụ ngân hàng cơ bản.

- Tìm kiếm các nguồn tài chính hỗ trợ dài hạn giúp các NHTM hiện đại hoá công nghệ ngân hàng trên cơ sở ứng dụng công nghệ thông tin, truyền thông và kỹ thuật số để nâng cao mức độ tự động hoá và tiện ích các dịch vụ ngân hàng. Phát triển hệ thống giao dịch tự động, mạng kết nối trực truyến, giao dịch một cửa.‌

Về mặt chính thức, Chính phủ Việt Nam chưa tuyên bố sẽ áp dụng Hiệp định Basel II. Tuy nhiên, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hiện đang thực hiện nghiên cứu cụ thể, chi tiết các nội dung trong Hiệp định Basel II, trên cơ sở đó trình Chính phủ một lộ trình áp dụng từng bước, từng nội dung có chọn lọc phù hợp với trình độ phát triển của hệ thống NHTM Việt Nam.[10], [11], [13].

3.3 MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM ÁP DỤNG CÁC CHUẨN MỰC QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA CÁC NHTM VIỆT NAM THEO HIỆP ĐỊNH BASEL II

3.3.1 Một số giải pháp đối với Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước

3.3.1.1 Xây dựng khuôn khổ chung cho quản trị rủi ro trong hoạt động của ngân hàng thương mại dựa trên các nội dung của Hiệp định Basel II

Vì bản thân Hiệp định Basel II là một quá trình phát triển các chuẩn mực từ đúc kết thực tiễn công tác quản trị rủi ro và giám sát an toàn hoạt động kinh doanh của NHTM trên thế giới, các nội dung trong Hiệp định cũng được xây dựng và trình bày từ thấp đến cao. Việc áp dụng ở mức độ nào các nội dung này phụ thuộc vào quyết định của từng quốc gia căn cứ trên trình độ phát triển của ngành ngân hàng nước đó.

Hiện tại, hệ thống các khuôn khổ pháp lý cho công tác giám sát an toàn hoạt động của hệ thống NHTM được quy định tập trung tại các Quyết định của NHNN


(trình bày trong chương II) và Nghị định 49 của Chính phủ hướng dẫn một số nội dung của Luật các TCTD năm 1998. Qua 5 năm thực hiện Nghị định 49 đã cho thấy Nghị định này không còn phù hợp, chủ yếu gồm:

- Đối tượng điều chỉnh của Nghị định 49 chỉ gồm NHTM nhà nước và NHTM cổ phần. Thực tế cho thấy xu hướng phát triển của thị trường tài chính – tiền tệ của Việt Nam sẽ phát sinh hàng loạt các loại hình sở hữu khác.

- Cho đến thời điểm của Nghị định 49 và cho đến hiện tại, NHNN Việt Nam vẫn là đại diện sở hữu nhà nước của phần vốn tại các NHTM nhà nước. Điều này hoàn toàn trái ngược với thông lệ quốc tế vì NHNN với vai trò là ngân hàng trung ương, là ngân hàng của các NHTM không nên và phải không là chủ sở hữu của các NHTM. Điều này đặc biệt có ý nghĩa khi hệ thống các NHTM cổ phần phát triển mạnh, đòi hỏi phải có một sân chơi công bằng, không thiên vị giữa các loại hình NHTM nói riêng và TCTD nói chung. Phần nhiều đề xuất nghiêng về hướng giao cho Bộ Tài chính là cơ quan chủ quản phần vốn góp của Nhà nước vào các NHTM nhà nước. Khi đó, Hội đồng quản trị sẽ do Bộ Tài chính bổ nhiệm thay vì NHNN như hiện nay, kéo theo hàng loạt các thay đổi trong cơ cấu, cơ chế tổ chức, hoạt động của NHTM.

- Nghị định 49 chưa nêu được vai trò và tầm quan trọng của công tác giám sát an toàn hoạt động của hệ thống NHTM cũng như yêu cầu đối với công tác kiểm tra kiểm soát nội bộ trong bản thân các NHTM.

Từ kinh nghiệm của các nước trên thế giới, kể cả các quốc gia trong khu vực và các nước có cùng trình độ phát triển kinh tế (Thái Lan, Singapore, Hong Kong, các nước Mỹ La tinh…), để tăng cường hiệu quả công tác quản trị rủi ro và giám sát an toàn trong hoạt động kinh doanh của hệ thống NHTM Việt Nam, Ngân hàng Nhà nước cần xây dựng một lộ trình cụ thể, chi tiết và có tính dài hạn trong việc áp dụng các nội dung của Hiệp định Basel II tại Việt Nam. Mặc dù Quyết định 457 đã đưa vào một phần nội dung về tính toán vốn an toàn tối thiểu và quy định về tỷ lệ vốn tối thiểu bằng 8% trên tài sản có rủi ro (cột trụ thứ nhất), nhưng các phương pháp khác như Chuẩn hoá (SA), Đánh giá nội bộ (IRB) và Chứng


khoán hoá chưa được đưa vào nội dung triển khai. Yêu cầu vốn tối thiểu mới chỉ tính toán vốn an toàn tín dụng (CRC), trong khi vốn an toàn rủi ro tác nghiệp (ORC) và rủi ro thị trường (MRC) chưa được quy định. Ví dụ: cơ quan quản lý tiền tệ Singapore (Moneytary Authority of Singapore – MAS) đã xây dựng một khuôn khổ pháp lý áp dụng Hiệp định Basel II đối với hệ thống NHTM Singapore từ tháng 8/2005. Theo kế hoạch này, sớm nhất là 1/1/2007 và chậm nhất là 1/1/2008 phương pháp Đánh giá nội bộ (IRBA) phải được áp dụng tại các NHTM Singapore [30].

3.3.1.2 Tăng cường khả năng giám sát của cơ quan giám sát thuộc Ngân hàng nhà nước

Như trình bày trong chương II, hiện tại chức năng giám sát hoạt động NHTM của Việt Nam đang được đảm nhiệm tại hai nơi là Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHTW) và Bộ Tài chính. Ngay tại NHNN Việt Nam, chức năng giám sát cũng được phân tán theo từng nghiệp vụ, từng mặt hoạt động.

Nhiều ý kiến chuyên gia cho rằng để tăng cường khả năng giám sát hoạt động của NHTM, bao gồm cả công tác cảnh báo từ xa, giám sát tuân thủ (compliance) và cơ chế báo cáo, Việt Nam nên thành lập một cơ quan độc lập trực thuộc Chính phủ để giám sát hoạt động của các NHTM, như mô hình của Singapore (MAS), của Anh (FSA – Financial Services Agency), Australia, Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan và kể cả Trung Quốc.

Tuy nhiên, trong điều kiện thực tế của Việt Nam, nên giữ chức năng giám sát an toàn hoạt động ngân hàng tại ngân hàng trung ương (NHNN Việt Nam) để đảm bảo tính hiệu quả, tức thời và khách quan (xem thêm trong Kiều Hữu Dũng (2005), Xây dựng hệ thống thanh tra giám sát ngân hàng hiệu quả tại Việt Nam, Tạp chí ngân hàng, Số tháng 4/2005).

Với quan điểm như trên, Việt Nam cần thiết phải xây dựng một cơ quan giám sát ngân hàng (ví dụ: Uỷ ban thanh tra giám sát) theo mô hình một tổng cục trực thuộc NHNN Việt Nam. Cụ thể:


+ Uỷ ban giám sát ngân hàng (Banking Supervision Committee – BSC) được xây dựng thành hệ thống theo chiều dọc, phạm vi thanh tra là toàn bộ các khu vực địa lý (có thể chia thành 3 khu vực Bắc, Trung, Nam hoặc tạm thời đặt các cơ sở (chi nhánh) tại NHNN các tỉnh, thành phố trong điều kiện mô hình tổ chức của NHNN Việt Nam như hiện nay. Chủ tịch BSC có thể là Thống đốc NHNN.

+ BSC có chức năng giám sát trong tất cả các khâu khép kín, từ cấp phép, giám sát từ xa, thanh tra tại chỗ và xử lý vi phạm.

+ BSC có một số nội dung hoạt động chủ yếu sau: (1) xây dựng hệ thống quy chế thanh tra giám sát theo thông lệ quốc tế (Basel II); đánh giá xếp hạng các TCTD theo tiêu chuẩn CAMELS; thanh tra giám sát rủi ro trên cơ sở định tính kết hợp với giám sát tuân thủ trên cơ sở định lượng, (2) hoàn thiện các quy định về an toàn phù hợp với thông lệ quốc tế (Basel II), (3) thiết lập mối quan hệ với thanh tra, giám sát ở các nước để đảm bảo hiệu quả và tính chính xác, cập nhật công tác kiểm tra giám sát các TCTD nước ngoài hoạt động tại Việt Nam.

3.3.1.3 Tăng cường năng lực tài chính của các NHTM

Hiện tại, năng lực tài chính (thể hiện bằng tỷ lệ vốn tự có trên tài sản có – Equity/Asset) của hệ thống NHTM nói chung và NHTM nhà nước nói riêng rất yếu, trong khi định hướng chiến lược phát triển đặt NHTM nhà nước vào vai trò “chủ lực trong hệ thống ngân hàng, đi đầu về quy mô, năng lực tài chính, công nghệ, quản lý...”. Đây là mâu thuẫn đòi hỏi Việt Nam phải có giải pháp thực hiện nhanh chóng.

Bảng 3.3: Yêu cầu tăng, bổ sung vốn cho các NHTM nhà nước



Ngân hàng

Thời điểm 2000

Thời điểm 2006

Nghìn

tỷ VND

% GDP

Nghìn

tỷ VND

%

GDP

Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam

3,0

0,8

0


Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển

nông thôn Việt Nam

6,0

1,2

8,0

1,7

Ngân hàng Công thương Việt Nam

11,0

1,8

15,0

2,9

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 132 trang tài liệu này.

Chuẩn mực quản trị rủi ro trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại theo hiệp định BASEL II và việc áp dụng tại Việt Nam - 12



Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt

Nam

5,5

1,2

7,0

1,4

Tổng số 4 NHTM nhà nước

25,5

4,5

30,0

6,0

Nguồn: [31]


Một trong những ví dụ rõ ràng nhất của mâu thuẫn này là quy định về vốn đầu tư của NHTM không được vượt quá 50% tổng vốn tự có của ngân hàng. Trong khi đó, nhu cầu đầu tư vào cơ sở hạ tầng (trụ sở, hạ tầng viễn thông...) và đặc biệt là máy móc, công nghệ của NHTM Việt Nam rất lớn. Hiện nay, các NHTM nhà nước đang gặp nhiều khó khăn trong những quyết định đầu tư vào các hệ thống phần mềm và chương trình quản lý vì quy định này. Theo điều tra hiện nay, một hệ thống Quản lý tài sản có/nợ cho một ngân hàng trung bình yêu cầu vốn đầu tư ban đầu từ 1,5 triệu USD đến 2 triệu USD, chưa tính đến chi phí bảo trì hàng năm và chi phí đào tạo cán bộ. Tương tự như vậy, một chương trình quản trị rủi ro tuân thủ Basel II cũng có chi phí đầu tư từ 1 triệu đến 1,3 triệu USD [38], [39], [40].

Trong điều kiện việc phát hành trái phiếu dài hạn tăng vốn cấp II còn nhiều khó khăn đối với các NHTM nhà nước vì chi phí lãi suất ở Việt Nam đang ở mức cao và thị trường có nhiều biến động, trong khi rủi ro tín dụng khó kiểm soát do sự vận động của quá trình phát triển kinh tế và hội nhập quốc tế, Chính phủ Việt Nam (thông qua Bộ Tài chính và Ngân hàng Nhà nước) nên xem xét phương án tăng vốn cho 5 NHTM nhà nước từ nguồn ngân sách. Trước mắt, đây là biện pháp thực tiễn nhất. Tuy nhiên có hai vấn đề lớn cần đặt ra và cân đối:

- Hiệu quả của vốn cấp mới từ ngân sách: Do các NHTM nhà nước có xu hướng coi phần vốn của Chính phủ cấp là phần đương nhiên, dễ dàng có được nên không tăng cường trách nhiệm quản lý vốn đảm bảo an toàn, hiệu quả. Do vậy, đi kèm với cơ chế cấp bổ sung vốn từ ngân sách nhà nước, Chính phủ phải đặt ra các yêu cầu chặt chẽ về việc quản lý hiệu quả.

- Nguồn thu của ngân sách: Do Chính phủ luôn trong tình trạng thâm hụt ngân sách thấp nhất từ 5% đến 8% trong những năm qua, khả năng cấp vốn cho


các NHTM bằng tiền mặt và các công cụ tiền là rất thấp. Trong khi đó, phương án cấp vốn bổ sung bằng trái phiếu Chính phủ không giúp đảm bảo tỷ lệ an toàn vốn về mặt thực tế, vì trong trường hợp cần sử dụng vốn để giải quyết các nhu cầu rút vốn của khách hàng, việc chiết khấu trái phiếu này trên thị trường vốn sẽ gặp nhiều khó khăn trong các điều kiện khủng hoảng và mất lòng tin của khách hàng đối với thị trường nói chung.

Một trong những giải pháp hữu hiệu và cũng là một xu thế tất yếu là phát triển thị trường chứng khoán, bao gồm cả thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp. Đối với các NHTM cổ phần và NHTM nhà nước đang trong quá trình cổ phần hoá (đến thời điểm tháng 5/2006, có 3 NHTM nhà nước đã bắt đầu lộ trình cổ phần hoá là Vietcombank, MHB (Ngân hàng phát triển nhà ĐB Sông Cửu Long) và BIDV. Trong đó, Vietcombank đi trước với việc phát hành trái phiếu tăng vốn vào thời điểm tháng 3/2006. Hai ngân hàng còn lại đã nhận được sự chấp thuận về cơ bản của Thủ tướng Chính phủ về việc cổ phần hoá. Trong đó, chú trọng phát triển thị trường thứ cấp đối với cổ phiếu, trái phiếu và các công cụ nợ (công cụ vốn) dài hạn.

3.3.2 Các giải pháp đối với ngân hàng thương mại

Chương II đã trình bày về hiện trạng công tác quản trị rủi ro trong hệ thống NHTM Việt Nam, với kết luận chung là cùng với năng lực quản trị doanh nghiệp nói chung còn yếu kém, quản trị rủi ro thực sự là một lỗ hổng lớn và trở thành một nguy cơ tổn thất tiềm tàng, đặc biệt trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngành ngân hàng đang diễn ra ngày càng mạnh mẽ.

Hiệp định Basel II đang dần có ảnh hưởng vượt qua khuôn khổ nhóm G10 và trở thành một chuẩn mực quốc tế trong công tác giám sát an toàn hoạt động NHTM cũng như quản trị rủi ro. Tuy nhiên, các NHTM Việt Nam sẽ gặp không ít khó khăn trong việc áp dụng những nguyên tắc và chỉ dẫn trong Hiệp định Basel

II. Để áp dụng các nội dung của Hiệp định Basel II nhằm tăng cường năng lực quản trị rủi ro, các NHTM Việt Nam cần xây dựng một chương trình tổng thể bao gồm nhiều nội dung và nhiều bước.


3.3.2.1 Nhóm các giải pháp đảm bảo tỷ lệ vốn an toàn tối thiểu

a) Tăng cường năng lực tài chính thông qua tăng vốn tự có

Các NHTM cần tìm mọi cách hợp pháp để tăng vốn tự có của mình, ít nhất đáp ứng đủ yêu cầu vốn tối thiểu 8% theo cách tính toán vốn an toàn tối thiểu theo Cột trụ thứ nhất của Hiệp định Basel II. Điều này có nghĩa là mức vốn tự có của NHTM sẽ phải lớn hơn mức tỷ lệ vốn tối thiểu theo quy định trong Quyết định 457 của NHNN Việt Nam. Bởi Quyết định 457 mới chỉ đặt ra yêu cầu vốn tối thiểu tương ứng với vốn an toàn cho rủi ro tín dụng (Credit Risk Capital – CRC), và chưa tính đến mức vốn an toàn cho rủi ro tác nghiệp (ORC) và vốn an toàn cho rủi ro thị trường (MRC).

Trong khi đối với các NHTM nhà nước, việc tăng vốn tự có gặp nhiều khó khăn vì những lý do nêu trong mục 3.3.1.3 của chương này, các NHTM cổ phần có nhiều cơ hội hơn trong phát hành cổ phiếu cũng như giữ lại lợi nhuận để tăng vốn và sử dụng Quỹ dự phòng tăng vốn điều lệ. Một thực tế là trong những năm qua, các NHTM nhà nước thực hiện trích dự phòng rủi ro với số lượng lên tới hàng chục nghìn tỷ đồng. Mặc dù những tài sản có này đã đưa ra ngoại bảng, nhưng các NHTM nhà nước hoàn toàn có thể thu hồi một phần hoặc toàn bộ số tài sản này thông qua nhiều biện pháp khác nhau: phát mại tài sản cầm cố, thế chấp; đòi nợ theo nghĩa vụ bảo lãnh của bên thứ ba...Trong nhiều trường hợp, phần nợ tồn đọng và nợ xấu đã xử lý rủi ro thu hồi được của các NHTM nhà nước được Chính phủ đồng ý đưa thẳng vào vốn tự có mà không hạch toán lợi nhuận. Đây là một kênh quan trọng để các NHTM nhà nước tăng vốn trong điều kiện nay.

b) Xây dựng Quy định nội bộ về xác định rủi ro tác nghiệp, rủi ro thị trường và hệthống tính toán vốn an toàn tối thiểu đối với rủi ro tác nghiệp và rủi ro thị trường.

Hiện tại, tất cả các NHTM Việt Nam kể cả NHTMNN và NHTMCP đều chưa có cơ chế, quy chế, quy định nội bộ về rủi ro tác nghiệp và rủi ro thị trường.

Xem tất cả 132 trang.

Ngày đăng: 08/09/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí