Sự Cần Thiết Phải Áp Dụng Các Chuẩn Mực Quản Trị Rủi Ro Theo Hiệp Định Basel Ii Tại Việt Nam


Bên cạnh đó, quy mô vốn nhỏ bé cộng với tỷ suất lợi nhuận không cao dẫn đến đầu tư cho công nghệ hiện đại bị hạn chế. Trong khi đó, mức đầu tư vào nâng cấp công nghệ ngân hàng bình quân một năm của những ngân hàng lớn trên thế giới (ví dụ: Citibank, JP Morgan, SMBC, Mizuho, HSBC, Standard Chartered Bank…) từ khoảng 800 triệu USD đến 1,2 tỷ USD (theo Fitch Ratings), lớn hơn vốn của 4 NHTMNN cộng lại.

b) Chưa chú trọng vào công tác xây dựng chính sách, quy trình, quy chế.

Trong điều kiện nền kinh tế phát triển nhanh chóng, các NHTM chú trọng nhiều hơn vào việc mở rộng mạng lưới, danh mục sản phẩm dịch vụ hơn là xây dựng các chính sách, quy trình đầy đủ để kiểm soát rủi ro. Một ví dụ rõ ràng là hầu hết các NHTM đều cung cấp các dịch vụ FX để phục vụ nhu cầu ngoại tệ của khách hàng ngày càng tăng khi các doanh nghiệp mở rộng xuất nhập khẩu ra thị trường thế giới. Tuy nhiên, hầu hết các NHTM chưa có một cơ chế đầy đủ để kiểm soát rủi ro thị trường ngoại hối. Đến nay, mới có duy nhất BIDV là ngân hàng đã xây dựng được hệ thống quản lý chất lượng ISO 9001 cho vài hoạt động chủ yếu gồm: cho vay, bảo lãnh và thanh toán tại Trụ sở chính của ngân hàng.

c) Công tác tuyển dụng và đào tạo không đáp ứng được yêu cầu công việc.

Trong khi hoạt động kinh doanh dịch vụ ngân hàng là một hoạt động phức tạp, đòi hỏi cán bộ ngân hàng phải có một kiến thức vừa tổng hợp, vừa chuyên sâu về kinh tế, kinh doanh, hàng hoá, dịch vụ, pháp luật, ngoại ngữ. Trong khi đó, công tác tuyển dụng chưa đặt ra được các yêu cầu tối thiểu năng lực làm việc với từng vị trí, chức danh công việc, cùng với đó là việc sử dụng lao động theo kiểu cứng nhắc, thiếu linh hoạt và cơ chế lương không phù hợp dẫn đến không tối ưu hoá được năng suất lao động của từng vị trí. Hầu hết cán bộ ngân hàng đều không có kiến thức về hàng hoá và thị trường , trong khi hoạt động ngân hàng là hoạt động gắn liền với sản xuất và kinh doanh. Ví dụ: quyết định tài trợ nhập khẩu một mặt hàng nhưng cán bộ ngân hàng phụ trách giao dịch đó không có kiến thức về công dụng, chủng loại, giá cả và thị trường của hàng hoá đó.

d) Một số nguyên nhân khách quan


- Cơ chế điều hành hoạt động tiền tệ, tỷ giá của NHNNVN dẫn đến việc can thiệp quá sâu vào hoạt động kinh doanh của ngân hàng, làm cho NHTM không chủ động trong việc thay đổi chính sách và chiến lược kinh doanh.

- Những quy định về sử dụng lao động, cơ chế trả lương, thưởng, phụ cấp và các quyền lợi khác của Chính phủ hạn chế việc tuân thủ các quy luật của thị trường lao động. Cụ thể: lương cho nhân viên phải được liên Bộ duyệt từng năm dẫn đến việc khó thu hút cán bộ có trình độ vào làm tại ngân hàng, đặc biệt trong các lĩnh vực CNTT, quản trị doanh nghiệp...

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 132 trang tài liệu này.

- Hạ tầng viễn thông của Việt Nam còn ở mức thấp, chi phí cao dẫn đến hạn chế tốc độ tự động hoá và số hoá trong giao dịch ngân hàng, không hỗ trợ được công tác quản trị điều hành. Ví dụ: chi phí thuê một đường truyền dữ liệu bằng cáp quang của một đơn vị cung cấp dịch vụ viễn thông từ một điểm giao dịch về trung tâm xử lý của ngân hàng rất cao, thường là trên 10.000 USD/năm cho một đường truyền tốc độ 128 kps. Tại phần lớn địa phương vẫn phải sử dụng đường truyền Dial-up với tốc độ 56 kps, không đảm bảo tốc độ xử lý các giao dịch tài chính của ngân hàng.

- Số lượng các công ty cung cấp giải pháp, phần mềm phục vụ hoạt động kinh doanh của ngân hàng, từ các chương trình tác nghiệp đến hệ thống giải pháp quản lý tại Việt Nam chưa nhiều, chưa đáp ứng nhu cầu về công nghệ của các NHTM. Phần lớn các giải pháp công nghệ trong ngân hàng hiện nay phải nhập từ nước ngoài, dẫn đến tình trạng lệ thuộc và hạn chế khả năng cải tiến, mở rộng.

Chuẩn mực quản trị rủi ro trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại theo hiệp định BASEL II và việc áp dụng tại Việt Nam - 10

Tóm lại, có nhiều nguyên nhân cả chủ quan và khách quan dẫn đến hiện trạng công tác quản trị rủi ro còn ở mức yếu kém của các NHTM Việt Nam hiện nay. Để khắc phục được những tồn tại đó, đòi hỏi phải có một nỗ lực mạnh mẽ từ bản thân các NHTM cũng như các cơ quan có thẩm quyền của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước, Bộ Tài chính và các cơ quan chức năng khác để xây dựng một môi trường tổng thể các yếu tố, điều kiện giúp các NHTM nâng cao năng lực quản trị rủi ro, đủ sức đối mặt với những thách thức cạnh tranh từ bên ngoài trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.


CHƯƠNG 3‌‌

KHẢ NĂNG ÁP DỤNG HIỆP ĐỊNH BASEL II VÀO QUẢN TRỊ RỦI RO TẠI CÁC NHTM VIỆT NAM VÀ CÁC GIẢI PHÁP THỰC HIỆN


3.1 SỰ CẦN THIẾT PHẢI ÁP DỤNG CÁC CHUẨN MỰC QUẢN TRỊ RỦI RO THEO HIỆP ĐỊNH BASEL II TẠI VIỆT NAM

3.1.1 Quá trình toàn cầu hoá và xu thế hội nhập kinh tế quốc tế

Toàn cầu hoá kinh tế là đặc trưng cơ bản và là xu thế phát triển tất yếu của thời đại, thể hiện ở sự gia tăng về quy mô và hình thức trao đổi hàng hoá, dịch vụ, lưu chuyển vốn quốc tế, chuyển giao công nghệ giữa các quốc gia và khu vực, làm tăng thêm mức độ phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế thế giới. Quá trình hoạch định chính sách cũng có những thay đổi, các biện pháp điều tiết kinh tế vĩ mô không phải do Chính phủ tuỳ ý định đoạt dựa trên lợi ích quốc gia, mà phải được thiết lập và thực thi trên cơ sở đảm bảo lợi ích và mục tiêu của các quốc gia, dân tộc có liên quan. Hơn nữa, chính sách này cũng phải được thay đổi theo thời gian và tình hình thực tế ở trong và ngoài nước.

Trong lĩnh vực tài chính ngân hàng, công nghệ hiện đại đã giúp các NHTM cũng như các định chế tài chính khác mở rộng quy mô và loại hình dịch vụ nhằm thực hiện việc phân bổ nguồn vốn. Cho vay qua hệ thống ngân hàng giảm đồng thời với phát triển cho vay trực tiếp qua thị trường chứng khoán. Trong đó, giao dịch qua mạng đã tiếp sức cho việc mở rộng phạm vi hoạt động theo hướng quốc tế hoá và thống nhất các nguyên tắc giao dịch tiền tệ, nhất thể hoá hoạt động tài chính trên cơ sở phối hợp xây dựng các chính sách, cơ chế quản lý và giám sát hoạt động ngân hàng, hình thành liên minh tiền tệ quốc tế và khu vực. Việc mở rộng quy mô hoạt động cũng đòi hỏi phải mở rộng thị phần theo hướng sáp nhật để hình thành những định chế tài chính lớn, xuất hiện xu hướng mạnh mẽ về cạnh tranh toàn cầu giữa các ngân hàng thương mại. Trên toàn thế giới, hiệu quả kinh doanh giảm do kịm ngạch giao dịch vốn lớn hơn so với nhu cầu vốn đầu tư và trao đổi thương mại thực tế, dẫn đến rủi ro và nguy cơ đổ vỡ ngân hàng và sự bất ổn


định trên thị trường tài chính thế giới, các ngân hàng phụ thuộc nhiều hơn và tài khoản dễ thanh khoản. Các nước đang phát triển đứng trước nguy cơ biến động mạnh của thị trường tài chính, nhất là dự trữ ngoại tệ và tài sản tài chính do nguyên nhân luồng tiết kiệm đầu tư chảy ra nước ngoài.

Trong bối cảnh đó, mỗi quốc gia phải thực hiện cải cách cùng với xây dựng một hệ thống quản lý tài chính và cơ chế phòng ngừa rủi ro tài chính quốc tế, công khai và minh bạch trong hoạt động ngân hàng, quy định chặt chẽ hơn về nguyên tắc an toàn vốn. Chính sách tỷ giá phải được thay đổi bằng chính sách tỷ giá thả nổi để tuân theo quy luật cung cầu của thị trường. Chính vì những lý do này, các tổ chức tài chính quốc tế đã tăng cường các biện pháp giám sát và kiểm soát hoạt động trên thị trường tài chính với việc ngân hàng trung ương của 10 nước có nền kinh tế phát triển trên thế giới đã thành lập Uỷ ban Basel 1975 nhằm đưa ra những nguyên tắc cơ bản về giám sát ngân hàng. Những nguyên tắc này được phát triển dựa trên thực tiễn biến động của thị trường và hoạt động kinh doanh của các NHTM chủ yếu tại các quốc gia đó, do vậy tự nhiên trở thành những chuẩn mực trong quản trị điều hành đối với những ngân hàng lớn, có hoạt động quốc tế chiếm tỷ trọng cao.

3.1.2 Tác động của cam kết hội nhập đối với hệ thống ngân hàng Việt Nam

Trong xu thế toàn cầu hoá mạnh mẽ, việc chủ động và sớm tham gia vào tiến trình toàn cầu hoá, thực hiện mở cửa nền kinh tế trở thành một đòi hỏi tất yếu đối với Việt Nam nếu muốn tồn tại và phát triển. Trong thời điểm hiện tại, đỉnh cao của toàn cầu hoá kinh tế là việc gia nhập và trở thành thành viên chính thức của Tổ chức thương mại thế giới (WTO). Trong quá trình đàm phán gia nhập WTO, Việt Nam phải ký kết hàng loạt hiệp định song phương và đa phương với hầu hết các nước thành viên WTO theo nguyên tắc cơ bản và lộ trình mở cửa được quy định trong Hiệp định chung về thương mại dịch vụ (GATS) trong khuôn khổ WTO như chế độ đối xử quốc gia (NT), quy chế tối huệ quốc (MFN), tính minh bạch của các chính sách liên quan đên shoạt động thương mại dịch vụ. Hiệp định thương mại Việt Mỹ (VN-US BTA) và Hiệp định khung về thương mại dịch vụ


(AFAS) trong khuôn khổ ASEAN đã chứa đựng những nội dung của GATS, chỉ khác nhau về thời điểm hiệu lực.

Theo VN-US BTA, các cam kết mở cửa dịch vụ ngân hàng được thực hiện theo lội trình 9 năm trước khi mọi hạn chế đối với các NHTM Mỹ được bãi bỏ. Từ thời điểm tháng 12/2010, các NHTM Mỹ có thể thành lập các ngân hàng con 100% vốn và hoạt động trên tất cả các mặt nghiệp vụ tại thị trường Việt Nam.

Trong khoảng thời gian 9 năm từ năm 2001, các nhà cung cấp dịch vụ tài chính Mỹ được phép cung cấp 12 phân ngành dịch vụ ngân hàng theo lộ trình 7 mốc. Theo lộ trình này, Việc Nam phải loại bỏ dần những hạn chế đối với các NHTM Mỹ, cho phép họ được tham gia với mức độ tăng dần vào mọi hoạt động ngân hàng trên thị trường. Có nhiều loại hình dịch vụ trùng với lĩnh vực hoạt động của các NHTM Việt Nam như thanh toán quốc tế, đầu tư dự án, tài trợ thương mại. Ngoài ra là hàng loạt các nghiệp vụ ở mức phát triển cao hiện các NHTM Việt Nam chưa thực hiện như môi giới tiền tệ, kinh doanh các sản phẩm phái sinh, tư vấn sáp nhập, mua lại...Nhìn chung các NHTM Mỹ có ưu thế về công nghệ và trình độ quản lý hơn hẳn các NHTM Việt Nam. Sức ép cạnh tranh đối với các NHTM trong nước sẽ tăng lên cùng với việc nới lỏng các quy định về hoạt động của các NHTM Mỹ, nhất là những ràng buộc được coi là hàng rào bảo hộ hiện nay như hạn chế về nhận tiền gửi VND, phát hành thẻ tín dụng và dịch vụ ATM. Thị phần của các NHTM trong nước sẽ giảm dần, nhất là tại những thành phố lớn, khu đông dân cư, khu công nghiệp, chế xuất...Ngoài ra, sức ép cạnh tranh lên hệ thống NHTM trong nước sẽ tập trung vào các lĩnh vực chủ yếu sau:

- Thị trường tín dụng (kể cả bán lẻ và bán buôn). Cạnh tranh về cho vay sẽ trở nên gay gắt hơn khi các ngân hàng nước ngoài đã hiểu rõ thị trường Việt Nam và môi trường pháp lý đảm bảo cho họ xử lý rủi ro để thu hồi nợ trong trường hợp cần thiết. trong đó, việc cho phép các ngân hàng nước ngoài tham gia tài cấp vốn, tái chiết khấu, thực hiện giao dịch SWAP, FORWARD từ ngân hàng trung ương sẽ giúp các ngân hàng này bù đắp một phần vốn huy động VND còn bị hạn chế theo lộ trình;


- Dịch vụ thanh toán và chuyển tiền. Đây là lĩnh vực có ưu thế tuyệt đối về công nghệ, vốn đầu tư của các NHTM nước ngoài.

- Dịch vụ tư vấn, môi giới kinh doanh tiền tệ, hỗ trợ phát triển và phục hồi doanh nghiệp. Đây là lĩnh vực các NHTM nước ngoài có thế mạnh về kinh nghiệm và trình độ chuyên môn so với NHTM Việt Nam.

Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ngành tài chính ngân hàng Việt Nam cũng mở ra một số cơ hội và thách thức đối với hệ thống NHTM Việt Nam. Cụ thể:

(a) Cơ hội

+ Mở rộng thị trường; phát triển và đưa ra các sản phẩm dịch vụ ngân hàng đa dạng hơn, tiện ích hơn; hoạt động an toàn hơn, hiệu quả hơn.

+ Cơ cấu lại khách hàng, nâng cao chất lượng danh mục tài sản.

+ Tiếp nhận công nghệ ngân hàng tiên tiến nhất cùng với kinh nghiệm quản lý từ bên ngoài.

+ Nâng cao năng lực tài chính từ các nguồn: Nhà nước, nhà đầu tư trong nước và từ nước ngoài) và nâng cao kỹ năng quản lý kinh doanh thông qua việc hình thành đồng bộ các định chế và kiểm soát rủi ro, tổ chức lại…;

+ Chuyển sang hoạt động theo nguyên tắc thương mại thực sự, tự do hoá, tách bạch tín dụng chính sách và tín dụng thương mại; tự quyết định trong cho vay, giảm bớt cho vay theo chỉ định của chính phủ; phân loại nợ, đánh giá rủi ro theo nguyên tắc thị trường…, tỷ giá và lãi suất được tự do hoá; chính sách tiền tệ đang được cải cách theo hướng sử dụng các công cụ gián tiếp; Khu vực ngân hàng cũng đang được mở cửa hơn cho các nhà đầu tư nước ngoài tham gia;

(b) Thách thức

+ Thị phần kinh doanh của các NHTM trong nước đứng trước nguy cơ bị thu hẹp; mất khách hàng tốt do chịu sự cạnh tranh từ các NHTM nước ngoài vượt trội hơn hẳn cả về vốn, công nghệ và trình độ quản lý.

+ Thị trường lao động ngày càng lưu hoạt dẫn đến nguy cơ tụt hậu về trình độ cán bộ làm việc trong các NHTM Việt Nam.


+ Nền kinh tế còn nhiều yếu kém, thị trường tài chính kém phát triển; các yếu tố kinh tế vĩ mô chưa thật sự bền vững và còn tiềm ẩn nhiều nguy cơ gây mất ổn định. Thu nhập bình quân đầu người thấp, năng lực tài chính và khả năng cạnh tranh của các khách hàng vay vốn ngân hàng không cao, do vậy rủi ro không trả được nợ với mức độ lớn của khách hàng luôn thường trực đối với hệ thống NHTM Việt Nam.

+ Hệ thống kế toán, chuẩn mực kiểm toán, hệ thống thanh tra, giám sát ngân hàng, hệ thống quản trị rủi ro, phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng rủi ro (không theo mức độ rủi ro mà chủ yếu dựa vào thời gian nợ quá hạn).

3.1.3 Khả năng áp dụng Hiệp định Basel II tại Việt Nam

3.1.3.1 Khả năng áp dụng Hiệp định Basel II tại cấp ngân hàng trung ương

Hiệp định Basel (kể cả Basel I và Basel II) là thoả thuận của ngân hàng trung ương hoặc cơ quan giám sát hoạt động ngân hàng của các nước trong khuôn khổ Uỷ ban Basel thuộc BIS nhằm thống nhất những tiêu chuẩn về an toàn hoạt động của các hệ thống NHTM của các quốc gia này. Những nội dung trong 3 cột trụ: tỷ lệ đảm bảo an toàn vốn tối thiểu, quy trình rà soát giám sát và nguyên tắc thị trường sẽ được cụ thể hoá thành những quy định pháp lý áp dụng đối với hệ thống NHTM và các tổ chức tài chính. Mục tiêu của việc áp dụng những quy định này là nhằm đảm bảo hệ thống ngân hàng thương mại hoạt động trong một khuôn khổ an toàn tài chính, ổn định và quản lý được những rủi ro chủ yếu, trong khi đó vẫn tăng trưởng và phát triển kinh doanh.

Việt Nam hoàn toàn có thể áp dụng các nội dung của Hiệp định Basel II vào trong khuôn khổ quản lý nhà nước về hoạt động ngân hàng và các yêu cầu tối thiểu đối với công tác quản trị NHTM. Cụ thể:

(a) Cột trụ thứ nhất – Yêu cầu vốn an toàn tối thiểu

Bổ sung các quy định về phương pháp chuẩn hoá, phương pháp đánh giá nội bộ vào trong quy định tính toán tỷ lệ vốn an toàn tối thiểu. Hiện tại, Việt Nam


đã bắt đầu xuất hiện các công ty đánh giá hệ số tín nhiệm tư nhân để đánh giá tín nhiệm của các doanh nghiệp kinh doanh. Việc giới thiệu dần phương pháp SA vào tính toán vốn tối thiểu bên cạnh việc tăng cưòng năng lực và hiệu quả quản trị rủi ro của hệ thống NHTM và còn giúp phát triển một thị trường mới là dịch vụ đánh giá tín nhiệm

(b) Quy trình rà soát, giám sát

Hiện tại, hệ thống thanh tra, giám sát hoạt động của NHTM và các tổ chức tài chính nằm tại hai cơ quan nhà nước.

NHNN Việt Nam thực hiện thanh tra, giám sát đối với các định chế tài chính gồm: NHTM, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính, các tổ chức tín dụng hợp tác.

Bộ Tài chính ngoài việc thực hiện chức năng thanh tra tài chính nói chung, còn thực hiện chức năng thanh tra giám sát đối với các định chế tài chính có liên quan đến thị trường tài chính như: Các công ty bảo hiểm, các quỹ, các công ty chứng khoán, thị trường chứng khoán.

Chính phủ có thể nghiên cứu thống nhất chức năng giám sát an toàn hoạt động của NHTM vào một cơ quan duy nhất, triển khai theo mô hình dọc từ NHNN TW tới các NHNN tỉnh, thành phố. Điều này đặc biệt có ý nghĩa thực tiễn trong quá trình cổ phần hoá các NHTMNN, khi phần vốn góp của Nhà nước trong các NHTM không còn là duy nhất, không cần thiết phải có một cơ quan riêng quản lý phần vốn góp đó nữa. Thay vào đó, NHNNVN thực hiện chức năng giám sát chung, đặt ra các quy định chặt chẽ về quy trình rà soát, giám sát nội bộ của các NHTM hoạt động trên thị trường theo các nội dung của cột trụ thứ hai trong Hiệp định Basel II và các chuẩn mực quốc tế khác về giám sát NHTM.

(c) Nguyên tắc thị trường

Hiện tại, NHNN Việt Nam đang yêu cầu các TCTD, mà cụ thể là các NHTM thực hiện chế độ báo cáo định kỳ theo nhiều nội dung khác nhau. Chế độ báo cáo theo Quyết định 477/2005/QĐ-NHNN về các chỉ tiêu kinh doanh chủ yếu, theo đó NHTM cần gửi số liệu báo cáo theo mẫu và tiêu chí về NHNN theo các

Xem tất cả 132 trang.

Ngày đăng: 08/09/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí