Đây không chỉ là môi trường rộng lớn để trí thức GDĐH có thể trao đổi chuyên môn, học hỏi kinh nghiệm và chuyển giao công nghệ với các nước tiên tiến trên thế giới mà còn là phương thức để sớm hình thành các chuyên gia trí thức GDĐH đầu ngành và cán bộ khoa học có trình độ cao cho đất nước.
4.2.5. Đổi mới chính sách trọng dụng, đảm bảo đãi ngộ xứng đáng đối với lao động của trí thức giáo dục đại học
Trong nền kinh tế thị trường, lợi ích vốn dĩ là vấn đề thường được các chủ thể lao động đặc biệt quan tâm và coi trọng. Đối với trí thức GDĐH, lợi ích vật chất là điều kiện của sự sinh tồn, điều này hợp với lẽ thông thường. Nhưng vấn đề đáng nói là để nâng cao chất lượng lao động của mình, trí thức GDĐH không thể xem lao động là gánh nặng mưu sinh, càng không thể đặt lợi ích vật chất thành mục đích tự thân của lao động “trồng người”. Mỗi trí thức giáo dục chân chính tuy không coi lợi ích vật chất là cứu cánh hay mục đích tiến thân nhưng rõ ràng nó phải là một trong những điều kiện, tiền đề không thể thiếu để lao động sáng tạo, để thúc đẩy niềm đam mê cống hiến. Thực trạng một bộ phận trí thức GDĐH thiếu tinh thần trách nhiệm trong giảng dạy và NCKH cộng với biểu hiện phai nhạt lý tưởng nghề nghiệp có thể tìm nguyên nhân ở nhiều phương diện nhưng không thể phủ nhận lý do từ cơ chế, chính sách đãi ngộ hiện nay. Bài toán đặt ra đối với chất lượng lao động của trí thức GDĐH là làm sao cơ chế, chính sách đãi ngộ phải thể hiện sự tôn vinh, trọng dụng giá trị đích thực của sáng tạo khoa học, là chất xúc tác góp phần nuôi dưỡng niềm đam mê, tâm huyết cho mỗi trí thức nhà giáo.
Trong nền kinh tế thị trường, nếu xem GDĐH là loại dịch vụ thì cần thiết phải có chính sách đầu tư, đãi ngộ đặc biệt. Điều này không đơn thuần chỉ hàm ý sự ưu tiên mà quan trọng hơn là sự nhìn nhận đúng vai trò của trí thức GDĐH “có khả năng tạo ra những giá trị to lớn, là nguồn tài nguyên vô giá và bất tận của đất nước, là nhân tố có ý nghĩa quyết định mức tăng trưởng cao, đưa đất nước nhanh chóng thoát khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu” [42, tr.329]. Sản phẩm ấy cần thiết được trả giá tương xứng thông qua tiền lương cũng như các chế độ phụ cấp khác. Đó là phương thức “mua lại” và sử dụng
chất xám của trí thức GDĐH một cách hợp pháp. Hơn nữa, cần thấy rằng, tình hình thức, bình quân chủ nghĩa trong chính sách trọng dụng, đãi ngộ, tôn vinh trí thức GDĐH luôn là lực cản, kìm hãm sự phát triển chất lượng lao động của đội ngũ này ở nước ta trong điều kiện hiện nay.
Có thể nói, tiền lương đóng vai trò là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến sự lựa chọn nghề nghiệp, việc làm, sự hài lòng công việc hay quyết định thuyên chuyển công tác của trí thức GDĐH. Điều này lý giải tại sao những khiếm khuyết trong quản lý, phân phối tiền lương, tiền thưởng đã ảnh hưởng tiêu cực đến thái độ lao động và tác động trái chiều đến kết quả thực hiện công việc của trí thức GDĐH. Đối với trí thức GDĐH, tiền lương là bộ phận chủ yếu trong thu nhập và biểu hiện rõ nhất lợi ích kinh tế, do vậy nó cần được sử dụng như một đòn bẩy mạnh mẽ để kích thích lao động tích cực của trí thức GDĐH.
Trên thực tế, chế độ và chính sách tiền lương của trí thức GDĐH ở nước ta còn rất nhiều bất ổn. Những nhà hoạch định chính sách đã từng xem trí thức GDĐH như những công chức thông thường nên xếp lương của họ vào hệ số thấp nhất trong bảng lương hành chính sự nghiệp. Sau khi có Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương 2 khóa VIII, lương của trí thức nhà giáo được xếp vào bậc cao nhất trong thang lương hành chính sự nghiệp. Gần đây, phụ cấp thâm niên đã được triển khai trên thực tế góp phần tăng thêm thu nhập cho trí thức nhà giáo. Tuy nhiên, so với các ngành kinh tế khác, đặc biệt nếu tính đến giá trị lao động của trí thức GDĐH thì chính sách tiền lương của giảng viên đại học như thời điểm hiện nay vẫn là sự bất cập không hề nhỏ, nên chưa trở thành động lực mạnh để mỗi nhà giáo tâm huyết với nghề. Thực tiễn đó đang cấp bách đòi hỏi phải đổi mới tư duy, cải cách chế độ tiền lương của trí thức GDĐH sao cho phản ánh đúng giá trị lao động của họ.
Trước hết, cần thiết phải đổi mới cơ chế tri trả lương hàng tháng cho trí thức GDĐH theo hướng: Ngạch, bậc lương được tính theo trình độ đào tạo, chức danh khoa học kết hợp với việc tăng lương tối thiểu theo lộ trình chung. Phần phụ cấp được tính đối với trí thức nhà giáo tham gia giảng dạy, cộng với phụ cấp theo thâm niên công tác và chức vụ đảm nhiệm.
Có thể bạn quan tâm!
- Nâng Cao Chất Lượng Lao Động Của Đội Ngũ Trí Thức Giáo Dục Đại Học Việt Nam Cần Gắn Liền Với Yêu Cầu Chuẩn Hóa Để Hội Nhập Quốc Tế Chuẩn
- Những Giải Pháp Chủ Yếu Nâng Cao Chất Lượng Lao Động Của Đội Ngũ Trí Thức Giáo Dục Đại Học Việt Nam Hiện Nay
- Hiện Đại Hóa Giáo Dục Đại Học Là Khâu Đột Phá Để Nâng Cao Chất Luợng Lao Động Của Đội Ngũ Trí Thức Nhà Giáo Việt Nam Hiện Nay
- Chất lượng lao động của đội ngũ trí thức giáo dục đại học Việt Nam hiện nay - 20
- Chất lượng lao động của đội ngũ trí thức giáo dục đại học Việt Nam hiện nay - 21
- Chất lượng lao động của đội ngũ trí thức giáo dục đại học Việt Nam hiện nay - 22
Xem toàn bộ 192 trang tài liệu này.
Tuy nhiên, tăng lương chưa đồng nghĩa với tăng chất lượng lao động của đội ngũ trí thức GDĐH, bởi đó chỉ là biện pháp kích cầu đầu vào, làm tiền đề, cơ sở cho việc nâng cao chất lượng lao động. Điều cốt lõi là cách thức chi trả tiền lương để đạt hiệu quả tốt nhất. Phương thức tính phụ cấp cho trí thức GDĐH đơn thuần theo thâm niên, chức vụ đảm nhận hay trình độ, chức danh như hiện nay thực chất vẫn chưa giải phóng khỏi tư tưởng cào bằng trong phân phối. Đây là sự lãng phí lớn mà ngành giáo dục cần sớm kiên quyết khắc phục bằng cách trả lương và phụ cấp theo năng lực; theo mức độ cống hiến, đóng góp; theo chất lượng lao động của từng nhà giáo. Để hiện thực hóa chủ trương này, yêu cầu định rõ tiêu chuẩn đo mức độ thực hiện, đo hiệu quả công việc của trí thức GDĐH là hết sức cần thiết.
Về nguyên tắc, Nhà trường cần tập trung trả thù lao cao hơn và có chính sách khen thưởng, tôn vinh đối với trí thức GDĐH hoàn thành công việc xuất sắc, có những phát minh, sáng kiến, sáng chế, những công trình, sản phẩm khoa học, công nghệ có giá trị. Thù lao ấy phải “đủ để bù đắp các hao phí sức lực, có thể tái đầu tư cho nghiên cứu phát triển” [161, tr.274]. Mặt khác, việc thực hiện nghiêm túc pháp lệnh của nhà nước về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ và điều lệ của chính phủ về sáng kiến cải tiến kỹ thuật là một trong những biện pháp quan trọng tạo nên động lực lao động bền vững của trí thức GDĐH.
Cùng với công tác thi đua, khen thưởng, Nhà trường cần tạo cơ hội thăng tiến và phát triển nghề nghiệp cho giảng viên. Xây dựng môi trường dân chủ, đoàn kết và nêu cao ý thức trách nhiệm trong giảng dạy và NCKH, quản lý giáo dục, khuyến khích, trân trọng những tìm tòi khoa học, phát huy tư duy sáng tạo của trí thức nhà giáo. Đây là biện pháp kích thích tinh thần mạnh mẽ để trí thức GDĐH tích cực nâng cao hiệu quả lao động một cách tự giác.
Khâu trọng yếu trong đổi mới cơ chế, chính sách đãi ngộ tạo động lực lao động cho đội ngũ trí thức GDĐH ở nước ta hiện nay là vấn đề đầu tư thỏa đáng về phương diện tài chính. Đầu tư từ ngân sách nhà nước có vai trò quan trọng nhưng chắc chắn không thể đáp ứng được nhu cầu ngày càng tăng của GDĐH. Nguồn đầu tư cần thiết phải được xã hội hóa, trong đó các cơ sở sản
xuất kinh doanh, các chủ thể sử dụng sản phầm lao động của trí thức GDĐH phải là nguồn đầu tư chủ yếu. Đồng thời cần đặc biệt quan tâm đến việc quản lý, phân bố và sử dụng các nguồn đầu tư cho GDĐH một cách hiệu quả, tránh gây thất thoát, lãng phí. Ở cấp vĩ mô, Nhà nước và mỗi cơ sở đào tạo cần chú ý đảm bảo hệ thống cơ sở vật chất, các thiết bị, công nghệ cho giảng dạy, NCKH và quản lý đào tạo, xây dựng các trường đại học trọng điểm, các cơ sở phục vụ nghiên cứu và thực nghiệm, mở rộng hợp tác quốc tế, tạo ra nhiều khả năng cho đội ngũ trí thức GDĐH học tập, nâng cao trình độ và cống hiến.
4.2.6. Đổi mới căn bản công tác quản lý, coi trọng kiểm định chất lượng lao động của đội ngũ trí thức giáo dục đại học
Quản lý, kiểm định chất lượng lao động của trí thức GDĐH có vai trò to lớn đối với việc tạo lập các động lực thúc đẩy tính tích cực lao động của mỗi nhà giáo.Trên thực tế, công tác quản lý, kiểm định GDĐH ở Việt Nam đã từng bước được đổi mới. Tuy nhiên vẫn còn bộc lộ không ít yếu kém, hạn chế từ cơ chế, chính sách đến qui trình quản lý ở các cấp; từ việc triển khai công tác đánh giá, kiểm định chất lượng các trường đại học đến việc sử dụng kết quả kiểm định vào mục tiêu nâng cao chất lượng lao động của từng nhà giáo. Điều này đòi hỏi phải chú trọng đến khâu quản lý - một lĩnh vực đang đặt ra yêu cầu cấp bách cần phải có tư duy đổi mới cùng với những cải cách sâu rộng, mạnh mẽ theo xu hướng dân chủ, thống nhất, tăng quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm xã hội của các cơ sở GDĐH ở nước ta trong bối cảnh hội nhập và gia tăng cạnh tranh.
Quản lý chất lượng lao động của trí thức GDĐH cần đảm bảo các yêu cầu sau:
Một là, chất lượng lao động của trí thức GDĐH là sự thỏa mãn hay đáp ứng nhu cầu của thị trường, của các chủ thể thụ hưởng sản phẩm GDĐH. Đây phải là yếu tố chính quy định việc thiết kế danh mục các chuyên ngành đào tạo, các chương trình, tài liệu phục vụ dạy, học và chuẩn đầu ra theo nhu cầu xã hội. Đối với mỗi cơ sở đào tạo, công khai chuẩn đầu ra đã trở nên thật sự cần thiết. Đó là cam kết bảo đảm chất lượng của cả hệ thống, của từng cơ
sở đào tạo; là căn cứ giám sát, đánh giá chất lượng lao động của đội ngũ trí thức GDĐH ở nước ta hiện nay.
Hai là, chất lượng lao động của trí thức GDĐH phụ thuộc vào các yếu tố đầu vào. Do đó, muốn có chất lượng đầu ra, Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng như lãnh đạo các trường đại học không thể thuần túy quản lý theo mục tiêu mà cần quản lý theo quá trình, trong đó chú trọng đến các điều kiện đảm bảo chất lượng lao động của trí thức GDĐH.
Ba là, cần tăng cường phân cấp quản lý chất lượng một cách cụ thể, rõ ràng, tránh tình trạng chồng chéo giữa các cơ quan quản lý. Mục đích của công tác quản lý là nhằm thiết lập chất lượng, kỷ luật lao động mới trên cơ sở tự giác, nghiêm minh, phát huy tính tích cực, tự giác và trách nhiệm của mỗi trí thức nhà giáo. Về vấn đề này, Chính phủ cần phải cải cách thể chế quản lý theo hướng xác định tư cách tự chủ, tự chịu trách nhiệm xã hội của trí thức nhà giáo, chuyển trọng tâm quản lý từ quản lý hành chính trực tiếp sang quản lý chất lượng, quản lý vĩ mô như: sử dụng các biện pháp hành chính cần thiết, lập pháp, qui hoạch, phục vụ thông tin, chỉ đạo chính sách. Chính phủ cần xác định cơ chế điều tiết thị trường của GDĐH để trường đại học liên hệ trực tiếp với xã hội, với thị trường lao động và chịu sự giám sát của xã hội về giá trị văn bằng cũng như chất lượng đào tạo.
Đổi mới, nâng cao hiệu quả quản lý chất lượng lao động của trí thức GDĐH cần tập trung vào hai vấn đề chính: quản lý đội ngũ trí thức nhà giáo và quản lý hoạt động lao động của họ.
Quản lý trí thức GDĐH bao gồm các vấn đề: đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng một cách hợp lý giữa yêu cầu của thực tiễn với thực trạng đội ngũ trí thức GDĐH, khắc phục nhanh chóng sự hẫng hụt đội ngũ cán bộ trình độ cao và tình trạng “chảy chất xám” đồng thời phải có chính sách đãi ngộ thỏa đáng theo cống hiến của trí thức GDĐH.
Quản lý lao động của trí thức GDĐH gồm tổ chức giao nhiệm vụ, đảm bảo quá trình thực hiện nhiệm vụ và đánh giá kết quả thực hiện theo hướng dân chủ, khách quan, công bằng. Quản lý chất lượng lao động của trí thức
GDĐH cần gắn liền với việc đẩy mạnh công tác đấu tranh chống các hiện tượng tiêu cực làm phương hại đến kết quả hoạt động chuyên môn nghiệp vụ của trí thức nhà giáo, góp phần tạo lập môi trường dân chủ, công bằng, kỷ cương cho lao động sáng tạo của trí thức GDĐH.
Kiểm định chất lượng lao động của trí thức GDĐH được xem là biện pháp quản lý hiệu quả nhằm xác định một cách có hệ thống giá trị lao động của giảng viên và cán bộ quản lý giáo dục trong tổng thể các hoạt động sư phạm. Một cơ chế hay phương thức kiểm định chất lượng lao động của đội ngũ trí thức GDĐH đảm bảo tính khoa học, phù hợp tự nó sẽ không phải là vật cản mà góp phần làm lành mạnh hóa động cơ phấn đấu của mỗi trí thức nhà giáo. Trong nền kinh tế thị trường, thiếu cơ chế kiểm định chất lượng đồng nghĩa với việc buông lỏng quản lý. Trên thực tế, khó có ngành nghề nào lại đòi hỏi trách nhiệm lao động nghiêm ngặt ở mức độ cao như nghề dạy học, bởi lẽ sai phạm của nó có thể dẫn đến những sản phẩm kém chất lượng, thậm chí là những sản phẩm hỏng mà sản phẩm của giáo dục - đào tạo lại là con người nên xã hội không thể chấp nhận. Đặt vấn đề coi trọng kiểm định chất lượng lao động của đội ngũ trí thức GDĐH là xuất phát từ yêu cầu cần tạo lập cách tổ chức lao động và kỷ luật lao động mới, từ thực tiễn mở rộng qui mô đào tạo, từ yêu cầu cấp thiết phải tạo lập thương hiệu của GDĐH Việt Nam trước xu thế hội nhập quốc tế, cạnh tranh và phát triển bền vững.
Công tác kiểm định cần phải đảm bảo các nguyên tắc cơ bản sau:
Một là, để đảm bảo tính khoa học trong kiểm định, vấn đề đặt ra là cần phải thiết lập bộ tiêu chuẩn chất lượng lao động của trí thức GDĐH trên cơ sở những minh chứng cụ thể, có tính xác thực để lượng hóa các tiêu chí một cách tường minh. Cần thay thế cách đánh giá trí thức GDĐH dựa trên tiêu chí hành chính đơn thuần bằng việc đánh giá dựa trên kết quả lao động với lượng thông tin đa chiều, bao hàm được chức trách, nhiệm vụ, mức độ đáp ứng yêu cầu công việc của nhà giáo ở bậc đại học.
Hai là, hiệu quả kiểm định chất lượng lao động của đội ngũ trí thức GDĐH còn phụ thuộc vào mục đích của việc sử dụng kết quả kiểm định như một cơ sở khoa học làm căn cứ cho các quyết định quản lý: bố trí, sử dụng, bổ
nhiệm, đề bạt hay đào tạo, bồi dưỡng hoặc xét nâng ngạch, nâng lương trước thời hạn; thậm chí là sa thải những giảng viên yếu kém, không đáp ứng tiêu chuẩn về chất lượng lao động đã cam kết. Đây là vấn đề chứa đựng sự nhạy cảm, phức tạp nhưng nếu không thực hiện thì khó có thể tạo ra sự chuyển biến tích cực trong chất lượng lao động của đội ngũ trí thức GDĐH ở nước ta hiện nay.
Ba là, khi GDĐH Việt Nam đang tham gia vào tiến trình hội nhập thì tiêu chí kiểm định chất lượng lao động của trí thức GDĐH cần thiết phải tiếp cận với trình độ, tiêu chuẩn kiểm định quốc tế. Yêu cầu này sẽ góp phần khắc phục tư tưởng tự mãn, thiếu nỗ lực trong rèn luyện phẩm chất đạo đức nghề nghiệp, bằng lòng với vốn tri thức, kinh nghiệm, năng lực hiện có của bản thân trí thức nhà giáo.
Thực chất kiểm định chất lượng lao động của trí thức GDĐH là đo lường mức độ đáp ứng mục tiêu giáo dục của giảng viên và cán bộ quản lý. Do vậy, các biện pháp quan trọng hiện nay cần tập trung tiến hành là:
- Bộ Giáo dục và Đào tạo cần ban hành chuẩn chất lượng lao động của trí thức GDĐH , bổ sung và thực hiện nghiêm túc tiêu chí đánh giá ngoài thông qua tổ chức đánh giá độc lập, có tư cách pháp nhân và chuyên sâu về đo lường, đánh giá, kiểm định chất lượng lao động của trí thức GDĐH nhằm đảo bảo tính khách quan, trung thực, tin cậy. Tổ chức đó gồm các cơ quan doanh nghiệp, công ty sử dụng sản phẩm của GDĐH, các đơn vị đánh giá độc lập, những cơ sở đào tạo khác ở trong nước và quốc tế. Kết quả đánh giá cần thiết phải lượng hóa bằng con số hay thứ hạng để phản ánh một cách tường minh chất lượng lao động của trí thức GDĐH.
- Thời gian tới, Bộ Giáo dục và Đào tạo cần nhanh chóng triển khai việc giảng viên đánh giá công tác chỉ đạo, điều hành của lãnh đạo nhà trường, các cán bộ quản lý để tiến tới kiểm định chất lượng lao động của đội ngũ này trong từng cơ sở đào tạo.
- Các trường đại học có trách nhiệm xây dựng và thực hiện kế hoạch bảo đảm chất lượng; định kỳ đăng ký kiểm định; tự đánh giá, công khai các điều kiện bảo đảm chất lượng và kết quả kiểm định chất lượng.
Kết luận chương 4
Chất lượng lao động của trí thức GDĐH là vấn đề có ý nghĩa quyết định đến sự tồn vong và phát triển của bản thân các trường đại học ở nước ta hiện nay. Vị trí, vai trò của trí thức GDĐH càng quan trọng bao nhiêu thì sự yếu kém, thiếu hụt trong chất lượng lao động của đội ngũ này càng gây hậu quả tiêu cực bấy nhiêu. Thực tiễn đã và đang chín muồi yêu cầu khách quan, bức xúc của một cuộc cải cách GDĐH theo hướng hiện đại hóa. Nó đòi hỏi phải đặt vấn đề nâng cao chất lượng lao động của đội ngũ trí thức nhà giáo lên hàng đầu và giải quyết trên tinh thần khoa học và cách mạng. Đó là phương thức để vượt lên tình trạng lạc hậu, bất cập, suy thoái của GDĐH trong điều kiện đã xuất hiện kinh tế tri thức và toàn cầu hóa mà ta không thể lảng tránh, càng không thể không chuẩn bị cho mình hành trang cần thiết để chủ động hội nhập.
Thực chất nâng cao chất lượng lao động của trí thức GDĐH là nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, năng lực lao động, phẩm chất chính trị, đạo đức nghề nghiệp để mỗi trí thức nhà giáo đem tài năng, nhiệt huyết, phục vụ mục tiêu nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho đất nước.
Nâng cao chất lượng lao động của đội ngũ trí thức GDĐH được xác định là trách nhiệm lớn lao của toàn xã hội. Trong mức độ đầy đủ, chất lượng lao động của trí thức GDĐH chỉ được được đảm bảo trên cơ sở định hướng từ những chủ trương, chính sách đúng đắn của Đảng, Nhà nước, của Bộ Giáo dục và Đào tạo; từ cơ chế tổ chức, quản lý kết hợp với việc kiểm tra, giám sát chất lượng lao động đến hoạt động tự giác, trách nhiệm, sáng tạo của đội ngũ trí thức nhà giáo. Cần thiết phải có những tác động đồng bộ, tổng hợp nhằm khuyến khích mỗi trí thức GDĐH nâng cao nhiệt tình và trách nhiệm nghề nghiệp và phát triển tính sáng tạo, tâm huyết trong sự nghiệp “trồng người”.