Nâng Cao Chất Lượng Lao Động Của Đội Ngũ Trí Thức Giáo Dục Đại Học Việt Nam Cần Gắn Liền Với Yêu Cầu Chuẩn Hóa Để Hội Nhập Quốc Tế Chuẩn


Lao động của trí thức GDĐH phải đáp ứng yêu cầu đa dạng hóa các cơ sở đào tạo phù hợp với nhu cầu phát triển công nghệ và các lĩnh vực, ngành nghề; yêu cầu xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và hội nhập quốc tế. Cần thiết phải chú trọng tính phù hợp giữa kỹ năng của sinh viên tốt nghiệp với nhu cầu của nhà tuyển dụng. Để đáp ứng được định hướng này, vấn đề có tính cấp thiết nhất hiện nay là nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của giảng viên, tạo lập mối quan hệ chặt chẽ giữa nhà trường - doanh nghiệp- các cơ quan tuyển dụng nhân lực đào tạo đại học. Đây là định hướng cơ bản nhằm nâng cao mức độ phù hợp, khả năng đáp ứng nguồn nhân lực cho nhu cầu của nền kinh tế đang tăng trưởng ở nước ta hiện nay, khắc phục tình trạng đào tạo tách rời với thị trường lao động vốn tồn tại lâu nay trong các cơ sở GDĐH.

Cùng với việc mở rộng qui mô đào tạo, nâng cao chất lượng lao động của trí thức GDĐH cần tập trung xây dựng một số trường đại học đẳng cấp quốc tế. Đây là định hướng phát triển để một mặt tạo môi trường, điều kiện nâng cao năng lực giảng dạy, NCKH, quản lý của trí thức GDĐH, mặt khác tạo áp lực cạnh tranh cho trí thức GDĐH Việt Nam trong việc khẳng định giá trị lao động và thương hiệu trường đại học đối với việc đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao. Nguồn nhân lực ấy không chỉ phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội trong nước mà còn hướng tới xuất khẩu lao động có chuyên môn, có kỹ thuật, lao động trí tuệ, lao động cao cấp ở tầm chuyên gia mà đối tác đòi hỏi. Theo ý kiến của các chuyên gia, Việt Nam cần tiến hành “nâng cấp các trường đại học hiện có, hình thành các chi nhánh của các trường đại học nước ngoài và xây dựng các trường đại học mới hoàn toàn trong đó cần ưu tiên xây dựng những đại học đạt trình độ quốc tế” [75, tr.36].

Trước mắt, để nâng cao chất lượng lao động của đội ngũ trí thức GDĐH cần đầu tư phát triển đội ngũ cán bộ giảng dạy và cán bộ quản lý giáo dục theo hướng tăng số lượng giảng viên và cán bộ quản lý GDĐH có trình độ, đủ để “đảm bảo tỷ lệ giữa sinh viên và giảng viên trong hệ thống giáo dục đại học không quá 20/1 và vào năm 2020, ít nhất 60% giảng viên có trình độ thạc sĩ và 35% có trình độ tiến sĩ” [21]. Ở một yêu cầu cao hơn, phấn đấu có đội


ngũ trí thức GDĐH đủ trình độ, năng lực để có khả năng đảm trách nhiệm vụ chuyên môn và quản lý giáo dục ở một số trường, ngành đào tạo ngang tầm khu vực và quốc tế. Điều đó đòi hỏi phải nâng cao chất lượng lao động của trí thức GDĐH theo hướng chuyên nghiệp hóa quốc tế hóa chất lượng giảng dạy, NCKH, ứng dụng, chuyển giao công nghệ và chất lượng quản lý giáo dục, tạo điều kiện để trí thức nhà giáo tham gia tích cực vào thị trường phân công lao động quốc tế.

Nâng cao năng lực giảng dạy và NCKH, quản lý giáo dục của trí thức GDĐH phải coi NCKH là điều kiện cơ bản làm nên chất lượng đào tạo, nhất là đào tạo sau đại học; phải thực sự đặt giảng dạy, NCKH, quản lý giáo dục trong mối quan hệ tương hỗ, gắn bó chật chẽ và hướng tới cập nhật trình độ của các quốc gia có nền đại học phát triển, rút ngắn độ chênh lệch về chất lượng so với các nước trên thế giới, từng bước khắc phục tình trạng tụt hậu trong quá trình hội nhập.

4.1.2. Nâng cao chất lượng lao động của đội ngũ trí thức giáo dục đại học Việt Nam cần gắn liền với yêu cầu chuẩn hóa để hội nhập quốc tế Chuẩn hóa trí thức GDĐH được xem là quá trình thực hiện những qui

tắc có tính chuẩn mực thể hiện giá trị lao động của nhà giáo. Sự cạnh tranh trong thị trường đa dạng và phức tạp cộng với yêu cầu chuẩn hóa trí thức GDĐH đòi hỏi mỗi nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục phải thường xuyên nâng cao năng lực bản thân về mọi mặt, phải tự khẳng định mình bằng lao động sáng tạo, có thực lực thực tài. Thực dạy của người thầy sẽ thúc đẩy sinh viên phải thực học để có đầy đủ những năng lực và kỹ năng cần thiết khi bước vào thị trường lao động.

Vấn đề có tính chất nguyên tắc cần được thống nhất về nhận thức rằng, không nên và không thể quan niệm chuẩn hóa trí thức GDĐH là việc xác lập những tiêu chí mang tính cứng nhắc, bất biến, trái lại nó đòi hỏi sự vận dụng linh hoạt, sự bổ sung kịp thời những tiêu chí mới phù hợp với biến đổi, phát triển của thực tiễn xã hội, của GDĐH trong bối cảnh đổi mới và hội nhập. Nếu không nhận thức và quán triệt điều này sẽ khó tránh khỏi tư

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 192 trang tài liệu này.


tưởng chủ quan duy ý chí. Yêu cầu cấp bách được đặt ra là cần xây dựng một tập thể trí thức nhà giáo đại học đạt chuẩn về phẩm chất chính trị, đạo đức nghề nghiệp, nhân cách, lối sống ; đạt chuẩn về trình độ, năng lực; đồng thuận về ý thức trách nhiệm phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân và cùng thống nhất trong mục tiêu, lý tưởng đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng đòi hỏi của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Theo đó, chuẩn hóa đội ngũ trí thức GDĐH thực chất qui tụ vào những giá trị tạo ra nhân cách của nhà giáo đại học:

Chất lượng lao động của đội ngũ trí thức giáo dục đại học Việt Nam hiện nay - 16

- Người trí thức GDĐH phải nêu gương cho sinh viên trách nhiệm công dân trước nhà nước và xã hội, tuân thủ kỷ luật, pháp luật trong một Nhà nước pháp quyền dân chủ.

- Người thầy giáo đại học phải là người giác ngộ lý tưởng cách mạng, có niềm tin sâu sắc đối với chủ nghĩa xã hội để thúc đẩy các thế hệ sinh viên mà mình đào tạo xác định lẽ sống, chuẩn bị cho họ vào đời, lập thân, lập nghiệp sao cho đúng đắn, phấn đấu cho lợi ích chung của cộng đồng xã hội, vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

- Lao động dạy học đòi hỏi mỗi người thầy phải biểu hiện mình là người lao động sáng tạo, tận tụy và trách nhiệm trong công việc “trồng người”. Dạy chữ để dạy nghề và cái đích sâu xa là dạy người, dạy sinh viên đạo lý làm người ở đời như Hồ Chí Minh đã chỉ dẫn.

- Lao động NCKH đòi hỏi nhà giáo đại học trong tư cách nhà khoa học phải nêu gương cho sinh viên sự trung thực (trọng sự thật, trọng chân lý), say mê, tâm huyết trong việc tìm tòi, phát hiện cái mới.

Những chuẩn mực như thế chính là yêu cầu mà Tố quốc, nhân dân, dân tộc và Đảng đòi hỏi đội ngũ trí thức GDĐH phải đáp ứng trong lao động nghề nghiệp cao quí mà họ đảm nhiệm. Nếu không thực hiện chuẩn hóa đội ngũ trí thức GDĐH theo những chuẩn mực ấy thì không thể tạo ra những tập thể sư phạm mạnh, đủ sức là những tấm gương cho sinh viên - những trí thức và chuyên gia tương lai noi theo cả về lý tưởng chính trị, lý tưởng nghề nghiệp và lối sống để họ rèn luyện cả về năng lực và phẩm chất đạo đức.


Chuẩn hóa trí thức GDĐH về phẩm chất chính trị, đạo đức nghề nghiệp, nhân cách, lối sống là đòi hỏi bắt buộc, nghiêm ngặt nhất và cũng là tiền đề đầu tiên để nâng cao chất lượng lao động của đội ngũ nhà giáo ở các trường đại học. Trong bối cảnh giáo dục và đào tạo đang chịu tác động tiêu cực từ mặt trái của cơ chế thị trường, việc đạt chuẩn về trình độ không tự tạo ra chất lượng lao động cao cho đội ngũ nhà giáo. Điều này lý giải tại sao trên thực tế, có một bộ phận trí thức nhà giáo tuy đạt chuẩn về trình độ theo qui định nhưng lại không hoàn thành tốt nhiệm vụ, thậm chí lao động thiếu hiệu quả. Vấn đề là ở chỗ, chất lượng giảng dạy; NCKH, chuyển giao, ứng dụng công nghệ và hiệu quả quản lý của trí thức GDĐH chỉ được đảm bảo nếu lao động của họ được định hướng bởi phẩm chất chính trị tốt, bởi đạo đức nghề nghiệp trong sáng, bởi nhân cách và lối sống mẫu mực. Ở đó, ý thức tôn trọng, thực hiện đúng mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước cũng như nội qui, qui định của trường, khoa, tổ bộ môn là yêu cầu trước tiên phải được chuẩn hóa. Lòng yêu người, yêu nghề; tôn trọng đồng nghiệp và sinh viên; thái độ tích cực, chủ động, tự giác, trách nhiệm của trí thức GDĐH đối với chất lượng nguồn nhân lực là đòi hỏi đặc thù mà mỗi nhà giáo ở các cơ sở đào tạo đại học phải đáp ứng. Thiếu tâm huyết với nghề đồng nghĩa với thiếu niềm đam mê, tự giác lao động sáng tạo; thiếu thái độ tôn trọng đồng nghiệp và sinh viên thì trí thức GDĐH khó có thể đảm bảo được nguyên tắc khách quan trong dạy học và đánh giá; đặc biệt nếu thiếu tính tích cực, tự giác, trách nhiệm trong lao động thì hoạt động giảng dạy, NCKH, tổ chức, quản lý của trí thức GDĐH sẽ kém hiệu quả. Đó là biểu hiện của kiểu lao động hình thức, tắc trách, lãng phí chất xám cần nghiêm túc khắc phục để hình thành và dần hoàn thiện cách tổ chức lao động, kỷ luật lao động mới dưới chủ nghĩa xã hội.

Chuẩn hóa trình độ, năng lực của đội ngũ trí thức GDĐH ở nước ta hiện nay đang trở thành mối quan tâm của nhiều chủ thể. Khó có thể nâng cao chất lượng lao động nghề nghiệp nếu bản thân trí thức nhà giáo không có trình độ học vấn, chuyên môn cao, thiếu kỹ năng giảng dạy và yếu kém về


năng lực sáng tạo, bởi lẽ, “họ là đối tượng phát triển vượt trội về học vấn, về năng lực trí tuệ” [10, tr.3]. Trước thực trạng mất cân đối nghiêm trọng trong cơ cấu của trí thức GDĐH Việt Nam hiện nay, yêu cầu chuẩn hóa trình độ, năng lực của nhà giáo đại học đã phản ánh đầy đủ tính bức thiết của vấn đề để tạo ra sự đồng bộ về chất lượng lao động của đội ngũ giảng viên và cán bộ quản lý giáo dục ở các trường đại học Việt Nam hiện nay.

Xét về trình độ, cần chuẩn hóa đội ngũ cán bộ quản lý và giảng viên đáp ứng những qui định của Điều lệ trường đại học. Theo đó, Ban Giám hiệu, đội ngũ lãnh đạo các phòng, khoa, trung tâm ít nhất phải có bằng tiến sĩ. Điều đáng phải hết sức lưu tâm là yêu cầu bằng tiến sĩ của mỗi chủ thể quản lý, lãnh đạo phải phù hợp với lĩnh vực, chuyên ngành mà họ đảm trách. Điều đó quy định rằng, cán bộ quản lý giáo dục phải được đào tạo, bồi dưỡng chuyên sâu về kiến thức và kỹ năng quản lý. Đối với trí thức GDĐH trực tiếp tham gia nhiệm vụ giảng dạy, NCKH, đặc trưng nhận thức và hiểu biết khoa học của họ không chỉ thuần túy đo bằng trình độ học vấn. Kiến thức của họ thường phải cao hơn mặt bằng chung của xã hội. Tiêu chí tối thiểu về trình độ của giảng viên đại học cần được chuẩn hóa đối với đội ngũ giảng viên là trình độ thạc sĩ và trong tương lai cần chuẩn hóa trình độ tiến sĩ. Cùng với yêu cầu đó là các tiêu chí qui định cụ thể mức độ đáp ứng mục tiêu giảng dạy gắn kết với NCKH theo luật định. Phải khắc phục triệt để, tiến tới xóa bỏ tình trạng cử nhân dạy cử nhân, tách rời NCKH và giảng dạy ở một số cơ sở đào tạo hiện nay. Cần thể chế hóa yêu cầu này trong thực tiễn GDĐH, chỉ cho phép giảng viên đứng lớp khi đạt chuẩn cả về trình độ tri thức, năng lực và đạo đức nghề nghiệp.

Trong xu thế toàn cầu hóa, trí thức GDĐH đang đứng trước nguy cơ tụt hậu ngày càng xa nếu không đáp ứng được những yêu cầu về ngoại ngữ và công nghệ thông tin. Hiện nay, chuẩn hóa trình độ ngoại ngữ và tin học cho trí thức GDĐH đã trở nên thật sự cấp thiết. Mỗi trí thức nhà giáo phải đáp ứng được yêu cầu sử dụng thành thạo tiếng Anh trong giao tiếp, phục vụ cho hoạt động nghề nghiệp chuyên môn đồng thời ứng dụng tốt và có hiệu quả công nghệ thông tin trong giảng dạy, NCKH cũng như trong tổ chức quản lý đào


tạo. Do đó, mỗi trí thức GDĐH cần phải thường xuyên và không ngừng học tập, nâng cao trình độ ngoại ngữ, tin học, nắm bắt và làm chủ máy móc, công nghệ hiện đại để phục vụ có hiệu quả cho công tác giảng dạy, NCKH và tổ chức quản lý giáo dục ở bậc cao nhất trong hệ thống giáo dục quốc dân.

Hội nhập khu vực và thế giới vừa là một thách thức vừa là một thời cơ lớn để phẩm chất sáng tạo trở thành một thuộc tính phổ biến trong hoạt động nghề nghiệp của trí thức GDĐH. Chuẩn hóa năng lực sáng tạo đặt ra yêu cầu cao trong giảng dạy, NCKH, tổ chức, quản lý đào tạo, đòi hỏi mỗi trí thức nhà giáo phải biểu hiện ở các phương diện từ phương pháp tiếp cận, năng lực thực hiện đến kết quả lao động. Đó có thể là sự phát triển tư duy sáng tạo cho người học, có thể là sản phẩm khoa học như giải pháp, qui trình mới hay những phát minh, sáng kiến, sáng chế của bản thân. Đây là những đòi hỏi rất cao nếu không đặt ra vấn đề chuẩn hóa thì khó có thể nâng cao chất lượng lao động của trí thức GDĐH ở nước ta trong bối cảnh hội nhập quốc tế.

Yêu cầu cần nhấn mạnh ở đây là việc chuẩn hóa trí thức GDĐH ở nước ta vể trình độ, năng lực phải hướng tới xây dựng đội ngũ nhà giáo, nhà khoa học, nhà quản lý giáo dục có khả năng mở rộng quan hệ hợp tác, hội nhập và liên kết với đội ngũ trí thức GDĐH quốc tế; chủ động, tích cực và khẳng định năng lực của mình khi tham gia giảng dạy, nghiên cứu ở các trường, các cơ sở đào tạo đại học ở nước ngoài, nhất là những nước có nền giáo dục hiện đại, tiến bộ.

Chuẩn hóa giảng viên về mặt số lượng là yêu cầu cần được chú trọng. Chất lượng lao động của đội ngũ trí thức GDĐH tuy không tỷ lệ thuận với số lượng giảng viên nhưng không thể phủ nhận đó là một trong những yếu tố đảm bảo hiệu quả của hoạt động lao động sư phạm. Nhiều năm qua, tình trạng thiếu giảng viên ở các cơ sở đào tạo đại học khiến cường độ giảng dạy của nhà giáo quá cao so với định mức. Đáng lo ngại là, tình trạng một giảng viên phải đảm trách nhiều học phần dẫn đến chất lượng bài giảng thiếu chuyên sâu, thiếu thời gian cho NCKH, bồi dưỡng nâng cao trình độ. Hạn chế này cần được khắc phục bằng việc chuẩn hóa số lượng giảng viên tối thiểu cho một môn học, một chuyên đề. Cần kiểm soát và xóa bỏ triệt để tình trạng


giảng viên giảng dạy quá nhiều học phần hoặc không đúng với chuyên môn

được đào tạo, dẫn tới hạ thấp chất lượng và tầm thường hóa khoa học.

Chuẩn hóa chất lượng giảng dạy, NCKH, ứng dụng và chuyển giao công nghệ của trí thức GDĐH hướng vào việc đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao là yêu cầu quan trọng đảm bảo giáo dục theo định hướng nghề nghiệp, theo nhu cầu xã hội mà Đảng, Nhà nước, Bộ Giáo dục và Đào tạo đang chỉ đạo thực hiện trong giai đoạn hiện nay. Sẽ là phi lý nếu lao động của đội ngũ trí thức GDĐH đạt chất lượng cao mà lại tạo ra những con người kém về trình độ chuyên môn, không đạt về phẩm chất đạo đức, yếu về kỹ năng lao động. Vì vậy, chuẩn hóa chất lượng lao động của trí thức GDĐH đòi hỏi phải tạo điều kiện để mỗi nhà giáo hoàn thành nhiệm vụ giảng dạy, NCKH, quản lý giáo dục nhằm tạo ra những sản phẩm hữu ích phục vụ sự phát triển kinh tế

- xã hội và trên hết là đào tạo nhân lực trình độ cao đáp ứng yêu cầu công việc

mà mình đảm nhận.

Để chuẩn hóa đội ngũ trí thức GDĐH cần thực hiện đồng bộ các cơ chế, chính sách từ đào tạo, bồi dưỡng đến kiểm định chất lượng nhằm tạo cơ sở pháp lý cho việc ra quyết định sa thải những trí thức nhà giáo không đạt chuẩn.

4.1.3. Nâng cao chất lượng lao động của đội ngũ trí thức giáo dục đại học Việt Nam phải trên cơ sở hình thành thái độ lao động tích cực của mỗi nhà giáo

Trình độ chuyên môn nghiệp vụ; năng lực giảng dạy, nghiên cứu, quản lý; nội dung chương trình; cơ sở vật chất kỹ thuật; cơ chế, chính sách đãi ngộ thỏa đáng là những yếu tố trực tiếp quyết định thái độ lao động tích cực của mỗi trí thức GDĐH. Thái độ lao động có thể tác động đến chất lượng lao động theo hai hướng: thúc đẩy chất lượng lao động nếu đó là thái độ tích cực, tự giác, hoặc tác động tiêu cực, thậm chí kìm hãm nếu đó là thái độ lao động hình thức, tắc trách, thụ động, cẩu thả và vụ lợi. Nâng cao chất lượng lao động của đội ngũ trí thức GDĐH phải trên cơ sở hình thành và củng cố bền vững thái độ lao động tích cực của mỗi giảng viên cũng như từng cán bộ quản lý giáo dục.


Thái độ lao động tích cực là một thuộc tính tâm lý cơ bản của nhân cách người lao động chân chính. Với mỗi nhà khoa học sư phạm có khát vọng và lý tưởng nghề nghiệp, chất lượng cao trong lao động phải trở thành nhu cầu tự biểu hiện và khẳng định mình trong hoạt động sống với động cơ, mục đích chân chính. Điều này đặt ra yêu cầu đối với trí thức GDĐH vừa phải “ý thức được vai trò của mình trong cộng đồng nhân loại để tích cực dấn thân vào hoạt động khoa học mang tầm thế giới” [73, tr.28], vừa phải giác ngộ và tự nhận lấy trách nhiệm của mình trong việc “nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài” và xây dựng tiềm lực trí tuệ cho quốc gia - dân tộc.

Chất lượng lao động của đội ngũ trí thức GDĐH phụ thuộc rất nhiều vào thái độ tích cực, tự giác, tận tâm của mỗi nhà giáo mà nếu thiếu nó, lao động sư phạm sẽ trở nên nhàm chán, thụ động, gượng ép và kém hiệu quả. Việt Nam đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. C. Mác đã từng nhận xét, đây là thời kỳ “đau đẻ kéo dài”, ở đó lao động tự giác, sáng tạo đang dần được thiết lập, nhưng không vì thế mà những biểu hiện của tha hóa lao động đã bị xóa bỏ hoàn toàn. Vì vậy, đạo đức cá nhân trước hết phải biểu hiện ở ý thức trách nhiệm trong lao động vì sự tiến bộ, phát triển của cộng đồng. Với trí thức GDĐH, lao động tự giác, tích cực phải trở thành nhu cầu và sự thôi thúc từ nội tâm của mỗi chủ thể.

Vốn là dạng thức lao động trí óc, sáng tạo bậc cao, nếu trí thức GDĐH giảng dạy, NCKH với tâm thế thụ động, tắc trách, nhàm chán, vì trục lợi cá nhân hay tuyệt đối hóa lợi ích vật chất, trước mắt, chạy theo đồng tiền bằng mọi giá thì tất yếu để lại hậu quả tiêu cực trong nguồn nhân lực được đào tạo. Trình độ chuyên môn nghiệp vụ, năng lực sư phạm của trí thức GDĐH chỉ được phát huy và trở nên hữu dụng trên nền tảng thái độ lao động tích cực, tự giác của mỗi nhà giáo và cán bộ quản lý.

Nền kinh tế thị trường ở Việt Nam mới bước đầu phát triển, chẳng những chưa định hình là một nền kinh tế thị trường hiện đại mà còn nhiều biểu hiện của một nền kinh tế thị trường sơ khai. Ở đó còn nhiều khiếm khuyết nên bộc lộ không ít tiêu cực, những mặt trái và hệ lụy xã hội, dẫn tới

Xem tất cả 192 trang.

Ngày đăng: 21/11/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí