Hiện Đại Hóa Giáo Dục Đại Học Là Khâu Đột Phá Để Nâng Cao Chất Luợng Lao Động Của Đội Ngũ Trí Thức Nhà Giáo Việt Nam Hiện Nay


nhu cầu và định hướng nghề nghiệp, khắc phục tình trạng “lệch chuẩn” giữa đào tạo và nhu cầu sử dụng nguồn nhân lực.

Để đảm bảo chất lượng lao động của đội ngũ trí thức GDĐH ở nước ta hiện nay, yêu cầu nâng cao trách nhiệm của các cơ sở đào tạo tất yếu được đặt ra. Nhiều năm qua, do công tác tổ chức yếu kém và thiếu tự chủ trong quản lý nên các cơ sở GDĐH khó có thể điều chỉnh số lượng tuyển sinh, các lĩnh vực đào tạo và bằng cấp để đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế thị trường. Hơn nữa, do ngân sách gắn với số lượng tuyển sinh và mục đích sử dụng kinh phí dưới sự kiểm soát, quy định và phân bổ của trung ương nên chưa tạo ra sức ép buộc các trường phải cải thiện chất lượng, nâng cao thương hiệu, của nhà trường. Kể từ khi Việt Nam gia nhập WTO, giáo dục được đồng thời thừa nhận là phúc lợi xã hội và dịch vụ. Áp lực hạch toán kinh doanh đòi hỏi các trường đại học phải nâng cao trách nhiệm của mình trước một số vấn đề sau:

Trước hết, Nhà trường phải thực hiện chế độ tự chủ về tổ chức bộ máy, biên chế, nhân sự, tài chính và tăng cường thanh tra, kiểm tra công tác giảng dạy, thi cử, hoạt động chuyên môn của các Khoa.

Thứ hai, về nguyên tắc, quyền tự chủ phải gắn với hệ thống trách nhiệm của nhà trường, của đội ngũ trí thức GDĐH về chất lượng đào tạo. Nó đòi hỏi Ban Giám hiệu Nhà trường, đội ngũ giảng viên và cán bộ quản lý ở các phòng, ban phải xác định rõ sứ mạng, nhiệm vụ, mục tiêu đào tạo của Nhà trường.

Thứ ba, Nhà trường phải chủ động đưa ra những cam kết về đảm bảo chất lượng giáo dục, đào tạo đối với người học, các cấp quản lý và trực tiếp nhất là các chủ thể sử dụng sản phẩm của GDĐH.

Thứ tư, mỗi trí thức nhà giáo, mỗi cán bộ lãnh đạo quản lý ở các cơ sở GDĐH phải có trách nhiệm thực hiện các giải pháp để thực hiện những cam kết về chất lượng đào tạo đã đề ra.

4.2.3. Hiện đại hóa giáo dục đại học là khâu đột phá để nâng cao chất luợng lao động của đội ngũ trí thức nhà giáo Việt Nam hiện nay

Bất cập lớn nhất trong GDĐH ở nước ta hiện nay là chưa đào tạo được

nguồn nhân lực chất lượng cao đủ sức đáp ứng yêu cầu của thị trường lao

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 192 trang tài liệu này.


động với những đòi hỏi ngày càng cao về trình độ và năng lực. Đã đến lúc phải quyết tâm tạo ra những chuyển biến tích cực trong hoạt động giảng dạy, NCKH, quản lý giáo dục của đội ngũ giảng viên và nhà giáo, xem đó là khâu đột phá để nâng cao chất luợng lao động của trí thức GDĐH trong bối cảnh hiện nay.

Chất lượng lao động của đội ngũ trí thức giáo dục đại học Việt Nam hiện nay - 18

Hiện đại hóa GDĐH thực chất là nhằm vào nâng cao chất lượng khoa học của việc dạy, nghiên cứu, quản lý, “khắc phục tình trạng thương mại hóa GDĐH, hình thức hóa NCKH gây lãng phí các nguồn lực và tầm thường hóa các giá trị” [10, tr.32], trong đó, khắc phục sự yếu kém không ngang tầm quốc tế của chất lượng GDĐH là điều mấu chốt. Để hiện thực hóa yêu cầu này cần tập trung giải quyết những vấn đề sau đây:

Một là, hiện đại hóa mục tiêu GDĐH. Đây là vấn đề cần thiết được làm sáng tỏ trên cơ sở tính đến những đòi hỏi được đặt ra từ bối cảnh của thời đại, trước những biến đổi của tình hình thế giới và trong nước. Đây là vấn đề hệ trọng cần được Bộ Giáo dục và Đào tạo, nhất là các trường đại học quan tâm đúng mức. Không xác định rõ mục tiêu, chuẩn đầu ra của từng chuyên ngành đào tạo thì sẽ không có những định hướng giá trị quy định toàn bộ quá trình lao động chuyên môn của trí thức nhà giáo.

Trước hết, Nhà nước cũng như Bộ Giáo dục và Đào tạo cần nghiên cứu, ban hành chuẩn năng lực đầu ra nói chung của sinh viên đại học. Trong đó, chú trọng mục tiêu đào tạo, bồi dưỡng và cung ứng cho thị trường lao động nguồn nhân lực chất lượng cao, đặc biệt là lực lượng chuyên gia. Đó là những chủ thể mang nhân cách tiến bộ, sáng tạo. Theo đó, Bộ Giáo dục và Đào tạo cần quán triệt quan điểm hiện đại hóa hoạt động giảng dạy, NCKH, quản lý giáo dục theo hướng chuyển đổi mục tiêu đào tạo từ chú trọng trang bị tri thức sang đào tạo kỹ năng của người lao động kiểu mới là cơ bản và chủ yếu, “đặc biệt coi trọng giáo dục lý tưởng, đạo đức, lối sống, năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành, tác phong công nghiệp, ý thức trách nhiệm xã hội” [51, tr.216] và năng lực thích ứng của sinh viên. Sự chuyển đổi mục tiêu đào tạo theo hướng nêu trên sẽ góp phần hiện thực hóa quan điểm đào tạo gắn với


nhu cầu xã hội và định hướng nghề nghiệp vốn được coi trọng trong những năm gần đây.

Để cụ thể hóa mục tiêu ấy, các trường đại học cần thiết kế mục tiêu giáo dục cụ thể nhằm xác định chính xác mẫu sản phẩm được sản xuất ra và nguồn nhân lực được đào tạo theo hướng đáp ứng những chuẩn giá trị nghề nghiệp nhất định.

Hai là, hiện đại hóa chương trình và nội dung giáo dục ở bậc đại học.

Trọng tâm trong khâu này là việc tinh giản và sàng lọc, làm mới những tri thức đảm bảo tính hiện đại, tránh tình trạng ôm đồm, quá tải, trùng lặp đã được đặt ra như một đòi hỏi khoa học trong qui trình hiện đại hóa nội dung giảng dạy. Đặc biệt, phải quan tâm, chú trọng đến chất lượng giảng dạy ngoại ngữ và tin học theo hướng chuẩn hóa, thiết thực, bảo đảm năng lực sử dụng của người học.

Những yêu cầu nêu trên đòi hỏi phải huy động nhiều trí tuệ, sức sáng tạo của mỗi nhà giáo, nhất là những tài năng khoa học, tài năng sư phạm của đất nước cùng tham gia xây dựng thiết kế chương trình giáo dục.

Trên cơ sở đó, mỗi cơ sở GDĐH cần đầu tư thích đáng để thực thi nhiệm vụ lao động vô cùng khó nhọc, phức tạp và tinh tế là tập trung nghiên cứu, viết lại giáo trình, các tài liệu khoa học dùng trong nhà trường theo hướng nghiên cứu phát triển và nghề nghiệp ứng dụng.

Mặt khác, Nhà nước, Bộ Giáo dục và Đào tạo cần ban hành chính sách thúc đẩy sự hợp tác, phát huy cộng đồng trách nhiệm giữa doanh nghiệp và trường đại học trong xây dựng nội dung, chương trình giáo dục. Đó là vấn đề thiết yếu cần sớm quan tâm để từng bước xóa dần khoảng cách giữa khả năng cung ứng nguồn nhân lực được đào tạo đại học với những yêu cầu, đòi hỏi của thực tiễn.

Ba là, hiện đại hóa phương pháp giáo dục - đào tạo ở bậc đại học, trước hết là phương pháp dạy và học. Đây là khâu then chốt để vượt qua tình trạng lạc hậu của GDĐH ở nước ta.

Hiện nay, khuynh hướng chung của giáo dục hiện đại là xóa bỏ tính chất thụ động, lệ thuộc của người học. Dưới vai trò định hướng, tổ chức, dẫn dắt của nhà sư phạm, người học phải được rèn luyện các năng lực, đức tính, phẩm chất của một con người thông minh, sáng tạo, có nhu cầu suy nghĩ độc


lập, lao động khoa học tích cực và chủ động. Do đó, thói quen ngại tư duy lâu nay vốn tồn tại ở bộ phận lớn sinh viên đã trở thành lực cản cho sự sáng tạo trong quá trình học tập và nghiên cứu. Khắc phục hạn chế ấy đã trở thành mục tiêu của hiện đại hóa phương pháp dạy và học.

Xét về thực chất, nhiều nhà khoa học thống nhất rằng, hiện đại hóa phương pháp dạy và học bao hàm trong bản thân nó hai nhiệm vụ: thanh toán tình trạng lạc hậu của các phương pháp giáo dục cũ; khoa học hóa, trí tuệ hóa phương pháp mới, lấy học trò làm trung tâm, thầy là chủ đạo định hướng, dẫn dắt người học trong việc tiếp nhận, tái tạo, xử lý tri thức, qua đó hình thành kỹ năng nghề nghiệp tương ứng.

Muốn đổi mới phương pháp dạy và học có hiệu quả, mỗi cơ sở giáo dục đại học cần trang bị đầy đủ những thiết bị hiện đại phục vụ hoạt giảng dạy, học tập của sinh viên.

Cùng với đó, trí thức GDĐH phải trở thành những chủ thể tích cực đổi mới toàn bộ các khâu của quy trình dạy học từ nhận thức của giảng viên và sinh viên đến quy trình chuẩn bị bài giảng, cách tổ chức dạy học, phương pháp học của trò, kiểm tra đánh giá của thầy. Mỗi trí thức nhà giáo cần khắc phục phương pháp giảng dạy theo lối truyền thụ một chiều để nâng cao chất lượng giảng dạy. Điều này cũng lý giải tại sao việc “phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kỹ năng của người học; tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học” [52] được xem là điểm cốt yếu của phương pháp sư phạm tích cực hiện nay.

Trong thời gian tới, Bộ Giáo dục và Đào tạo cần có chủ trương giao nhiệm vụ cho hệ thống các trường sư phạm phải đi đầu đổi mới cả về phương pháp lẫn chương trình giảng dạy, chấm dứt tình trạng các trường đại học sư phạm lạc hậu về nội dung, phương pháp giảng dạy so với thực tiễn.

Bốn là, hiện đại hóa GDĐH còn bao hàm đổi mới và nâng cao chất lượng, trình độ của các thiết chế giáo dục.

Trách nhiệm này trước hết thuộc về Bộ Giáo dục và Đào tạo trong việc

kịp thời định hướng cho các cơ sở đào tạo xây dựng thiết chế “GDĐH mở”,


tăng cường hoạt động hợp tác quốc tế. Đây vừa là môi trường để trí thức GDĐH Việt Nam trao đổi chuyên môn, học thuật với giảng viên của các trường đại học danh tiếng, vừa là hệ qui chiếu để trí thức GDĐH nước ta tự soi mình vào thế giới và tự hoàn thiện mình trước những đòi hỏi của đất nước cũng như xu thế chung của thời đại.

Hơn nữa, trong điều kiện hiện nay, để đổi mới và nâng cao chất lượng, trình độ của các thiết chế giáo dục thì mỗi trường đại học phải đồng thời tập trung hiện đại hóa thư viện, phòng thí nghiệm, các phương tiện thiết bị phục vụ giảng dạy, học tập, mặt khác cũng phải hiện đại hóa hoạt động tổ chức, quản lý trí thức nhà giáo cả về phẩm chất chính trị, đạo đức nghề nghiệp và hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ.

4.2.4. Tạo chuyển biến căn bản trong công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ trí thức giáo dục đại học đáp ứng chuẩn nghề nghiệp

Tình trạng thiếu hụt trí thức nhà giáo trình độ cao cộng với sự bất cập, mất cân đối về cơ cấu hay những yếu kém về năng lực ở một bộ phận giảng viên đang đặt đội ngũ trí thức GDĐH Việt Nam trước nguy cơ tụt hậu ngày càng xa hơn so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Chủ động tìm biện pháp khắc phục nguy cơ, thách thức ấy từ việc tạo chuyển biến căn bản trong công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ trí thức GDĐH đã trở thành nhu cầu thiết yếu.

Đào tạo, bồi dưỡng là con đường trực tiếp nhất, là hình thức cơ bản để phát triển đội ngũ trí thức GDĐH đáp ứng những đòi hỏi ngày càng cao của đặc thù nghề nghiệp. Trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, năng lực và phẩm chất đạo đức của trí thức GDĐH không thể tự phát hình thành, chín muồi ở bên ngoài giáo dục. Nó chỉ có thể là sản phẩm xã hội của quá trình đầu tư đào tạo, bồi dưỡng một cách công phu và rất lâu dài. Như vậy, đặt vấn đề tạo chuyển biến căn bản về công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ trí thức GDĐH ở nước ta trong giai đoạn hiện nay là xuất phát từ chính qui luật nội tại của giáo dục, từ sự thiếu hụt nghiêm trọng giảng viên có trình độ cao ở các trường đại học.


Trước hết, mục tiêu của công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ trí thức GDĐH cần được xác định một cách cụ thể phù hợp với yêu cầu thực tiễn.

Quan điểm xuyên suốt định hướng công tác phát triển trí thức GDĐH ở nước ta hiện nay là lấy đòi hỏi cao và tính mực thước trong khoa học sư phạm làm chuẩn để đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ nhà giáo xã hội chủ nghĩa phát triển toàn diện, đủ đức, đủ tài với cơ cấu hợp lý về trình độ chuyên môn nghiệp vụ và năng lực lao động. Lâu nay, chúng ta đào tạo trí thức GDĐH theo phương châm đáp ứng nhu cầu gia tăng tỷ lệ giảng viên, cán bộ quản lý có trình độ sau đại học hoặc chú trọng bồi dưỡng ngắn hạn phục vụ yêu cầu cấp bách trước mắt. Tình trạng đó dẫn đến một thực tế, công tác đào tạo, bồi dưỡng nặng về hình thức, thiếu tính chính qui, chuyên nghiệp và thiếu tính toàn diện; giáo dục, bồi dưỡng về phẩm chất đạo đức chưa được coi trọng đúng mức. Bước vào thời kỳ mới - thời kỳ đẩy mạnh quốc tế hóa GDĐH, chức năng đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, đào tạo chuyên gia cùng với yêu cầu chuẩn hóa trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, năng lực, phẩm chất đạo đức nghề nghiệp của trí thức nhà giáo được đặc biệt quan tâm và nhấn mạnh. Xã hội càng phát triển theo hướng hiện đại, trình độ phân công lao động, chuyên môn hóa càng cao và sâu sắc bao nhiêu thì càng cần thiết phải định hình một đội ngũ trí thức GDĐH đồng bộ về chất lượng, đáp ứng những đặc thù nghề nghiệp bấy nhiêu. Giá trị cốt lõi của mỗi chủ thể nhà giáo được biểu hiện ở trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, năng lực và đạo đức nghề nghiệp. Sự yếu kém ở bất kỳ phương diện nào cũng là mối nguy hại rất lớn đối với chất lượng lao động của trí thức GDĐH vì hệ lụy của nó là những thế hệ học trò yếu kém, trình độ, năng lực không tương xứng với bằng cấp được trao.

Mục tiêu chủ yếu của công tác đào tạo, bồi dưỡng trí thức GDĐH là tạo ra sự biến đổi ở mỗi giảng viên về kiến thức, kỹ năng và thái độ, hướng tới xây dựng đội ngũ giảng viên, cán bộ quản lý giáo dục thực lực, thực tài. Riêng độ ngũ cán bộ quản lý trường đại học phải được đào tạo và huấn luyện chuyên môn về lú luận khoa học quản lý, nghiệp vụ, kỹ năng quản lý trường đại học một cách cơ bản và hệ thống. Đặc biệt, cần thiết phải quan tâm đào


tạo, bồi dưỡng các chuyên gia đầu ngành, các trí thức tinh hoa, các tập thể khoa học sư phạm, tập trung đào tạo tài năng trẻ với sự đầu tư đủ mạnh các nguồn lực của nhà nước - một vấn đề thuộc về trách nhiệm không thể lơ là để tạo nên nguồn lực trí tuệ GDĐH ở tầm chiến lược trong tương lai.

Để xây dựng đội ngũ giảng viên, cán bộ quản lý giáo dục đáp ứng chuẩn nghề nghiệp còn đòi hỏi phải đổi mới nội dung chương trình, phương pháp đào tạo, bồi dưỡng trí thức GDĐH.

Nếu như trước đây, công tác đào tạo, bồi dưỡng trí thức GDĐH thường chỉ chú trọng đến trình độ chuyên môn thì trong giai đoạn hiện nay, những yếu kém, thiếu hụt về nghiệp vụ sư phạm, năng lực sáng tạo, ngoại ngữ cần được khắc phục bằng sự điều chỉnh nội dung chương trình đào tạo, bồi dưỡng trí thức GDĐH theo hướng cân đối, toàn diện.

Quá trình phân công lao động trên phạm vi toàn cầu đang khách quan đòi hỏi ngoại ngữ phải trở thành yếu tố quan trọng không thể thiếu của mỗi chủ thể lao động. Con đường khai thác lợi thế của nước đi sau và làm giàu trí tuệ của chính mình tự nó cũng đòi hỏi phải có ngoại ngữ hỗ trợ. Đối với trí thức GDĐH Việt Nam, đó vừa là công cụ, phương tiện phục vụ cho hoạt động giảng dạy, nghiên cứu và quản lý giáo dục, vừa là yếu tố cần được chú trọng ở mức độ cần thiết trong công tác đào tạo, bồi dưỡng để xây dựng đội ngũ trí thức GDĐH đạt trình độ khu vực và quốc tế, có đủ năng lực tiếp cận tri thức khoa học công nghệ tiên tiến, mở rộng hợp tác, trao đổi học thuật với lực lượng chuyên gia ở các nước phát triển trên thế giới. Đây là vấn đề cơ bản, lâu dài, chứa đựng đầy thách thức của GDĐH ở nước ta nhưng nếu không quyết tâm sẽ phải trả giá bằng sự lạc hậu, tụt hậu ngày càng xa so với quốc tế.

Để xây dựng đội ngũ trí thức GDĐH kế tục đáp ứng chuẩn nghề nghiệp cần thiết phải tạo ra bước chuyển biến cơ bản trong chất lượng lao động chuyên môn, nghiệp vụ của lực lượng trí thức nhà giáo trẻ; tập trung hình thành các năng lực mà đội ngũ trí thức GDĐH đang thua kém, tụt hậu so với các nước, nhất là năng lực sáng tạo. Riêng trí thức GDĐH tham gia hoạt động quản lý cần phải được đào tạo bài bản theo hướng mở rộng và tăng cường tri


thức chuyên môn, kỹ năng điều hành, nghiệp vụ lãnh đạo, quản lý theo công

việc mà trí thức nhà giáo đảm nhiệm.

Trước hết, mỗi trí thức GDĐH cần phải hình thành thói quen tự học, tự nghiên cứu, tìm tòi, tự làm mới, làm giàu tri thức. Không có năng lực, nhu cầu và thói quen tự làm mới vốn liếng học vấn của mình, trí thức GDĐH sẽ rơi vào tình trạng lạc hậu đến mức rất khó để có thể tồn tại được trong thế giới đương đại ngày nay.

Các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng trí thức GDĐH cần tạo ra được những áp lực để mỗi trí thức nhà giáo chuyên tâm vào việc học, nghiên cứu bằng việc đặt ra yêu cầu cao trong quá trình đào tạo và bồi dưỡng. Áp lực ấy tuyệt nhiên không phải do những thủ tục hành chính đem lại mà phải được tạo ra từ yêu cầu cao của việc tìm tòi, nghiên cứu, sáng tạo buộc mỗi trí thức nhà giáo phải thật sự tận tâm, tận lực gắn bó và cống hiến mới có thể hoàn thành. Nếu không đảm bảo được điều đó thì dù xét ở khía cạnh nào cũng khó có thể khắc phục được tính hình thức của chương trình đào tạo, bồi dưỡng.

Bộ Giáo dục và Đào tạo cần cải tiến phương thức đào tạo, bồi dưỡng trí thức GDĐH theo hướng đa dạng hóa các loại hình: tập huấn cập nhật kiến thức, hội thảo chuyên đề, đào tạo tập trung và không tập trung, chính qui và không chính qui, bồi dưỡng dài hạn và ngắn hạn, đào tạo trong nước kết hợp với đào tạo ở các cơ sở đại học danh tiếng trên thế giới. Trong đó, đào tạo và bồi dưỡng phải được gắn kết với nhau thành một qui trình liên tục, thống nhất; cần có chế độ, chính sách tu nghiệp thường xuyên đối với trí thức GDĐH ở nước ngoài, trao đổi chuyên gia, học giả với các nước.

Trong những năm tới, Nhà nước, Bộ Giáo dục và Đào tạo, các cơ sở giáo dục đại học cần giành sự ưu tiên thỏa đáng cho hoạt động đào tạo chuyên môn sâu ở các ngành, chú trọng bồi dưỡng phương pháp giảng dạy, năng lực nghiên cứu của đội ngũ giảng viên. Đặc biệt, việc triển khai, thực hiện có hiệu quả chủ trương, chính sách, cơ chế tạo môi trường thuận lợi để thu hút các nhà khoa học giỏi, các chuyên gia nước ngoài vào đội ngũ giảng viên cao cấp của các cơ sở đại học phải được quan tâm, chú trọng đúng mức.

Xem tất cả 192 trang.

Ngày đăng: 21/11/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí