Chất Lượng Lao Động Của Đội Ngũ Trí Thức Giáo Dục Đại Học Được Đảm Bảo Bởi Trách Nhiệm Của Nhà Giáo Nhưng Cơ Chế Kiểm Tra, Giám Sát, Đánh


động của trí thức GDĐH. Hơn nữa, những năm gần đây, việc mở rộng qui mô và đa dạng hoá các loại hình đào tạo đã đặt ra yêu cầu cấp thiết về kiểm soát các điều kiện đảm bảo chất lượng nhưng sự thiếu thốn về cơ sở vật chất, tỷ lệ giảng viên/sinh viên, tỷ lệ tiến sĩ/giảng viên ở ở một số cơ sở đào tạo đại học chưa đáp ứng tiêu chuẩn đảm bảo chất lượng. Theo số liệu thống kê, trong giai đoạn 2000 - 2012, số lượng sinh viên tăng 2,4 lần với tốc độ mỗi năm bình quân là 8,4% trong khi các điều kiện về đội ngũ giảng viên, cơ sở vật chất kỹ thuật chưa phát triển đủ để bảo đảm chất lượng đào tạo. Mặc dù, số lượng giảng viên có tăng theo số lượng sinh viên để giữ tỷ lệ sinh viên trên giảng viên ở mức bình quân từ 27 đến 29, nhưng tỷ lệ giảng viên trình độ tiến sĩ giảm từ 14,8% xuống 10,6% [170]. Năm học 2011- 2012, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã triển khai rà soát thống kê các điều kiện đảm bảo chất lượng, kết quả tuyển sinh, đào tạo, kết quả NCKH và liên kết đào tạo của các cơ sở đào tạo thạc sĩ. Đối chiếu với các quy định hiện hành, Bộ đã dừng tuyển sinh đào tạo thạc sĩ đối với 161 ngành đào tạo thạc sĩ không đáp ứng các điều kiện đảm bảo chất lượng. Để khắc phục những vấn đề nêu trên theo hướng nâng cao chất lượng đào tạo đòi hỏi sự đầu tư rất lớn về kinh phí trong khi ngân sách nhà nước có hạn. Đây là thách thức rất lớn, khó có thể giải quyết thỏa đáng trong tương lai gần.

Hiện nay, mục tiêu đào tạo theo nhu cầu xã hội khách quan đòi hỏi trí thức GDĐH phải trở thành chủ thể trước yêu cầu đổi mới nội dung, chương trình đào tạo và phương pháp giảng dạy theo hướng chú trọng hình thành kỹ năng lao động cho nguồn nhân lực đáp ứng đòi hỏi của thị trường. Tuy nhiên, trên thực tế chúng ta đang mắc phải rào cản từ tư duy ngại đổi mới; từ những yếu kém về kỹ năng sư phạm của không ít giảng viên; từ mối quan hệ lỏng lẻo giữa các trường đại học và doanh nghiệp. Hiện nay, vẫn tồn tại tình trạng thiếu thông tin về thị trường lao động và nhu cầu của nhà tuyển dụng về các kỹ năng cần thiết mà nguồn nhân lực được đào tạo đại học phải cung ứng; trách nhiệm tham gia của doanh nghiệp và các chủ thể sử dụng nguồn nhân lực vào quá trình đào tạo chưa cao; mức độ nhận thức của toàn xã hội về đào


tạo theo định hướng nghề nghiệp còn thấp; tầm nhìn, chiến lược phát triển và quy trình quản lý đào tạo của nhiều trường còn bộc lộ sự bất cập. Nghịch lý là ở chỗ, trong khi mục tiêu của GDĐH là đào tạo theo định hướng thực hành, rèn luyện kỹ năng theo nhu cầu xã hội thì tâm lý trọng bằng cấp, thói quen quan tâm đến bảng điểm hơn là tay nghề và khả năng thực sự của sinh viên đang tồn tại phổ biến trong các nhà tuyển dụng. Hệ quả trực tiếp của tư tưởng này này là người học cũng như người dạy hiện nay vẫn đang quá chú trọng đến kiến thức hàn lâm thay vì ứng dụng, thêm vào đó là tình trạng nhà trường tách rời doanh nghiệp đã trở thành rào cản hạn chế khả năng cung ứng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động của đội ngũ trí thức GDĐH ở nước ta.

Mặt khác, chính phương thức phát triển theo bề rộng tồn tại lâu dài trong nền kinh tế cộng với sự phân khúc giá trị, phân công lao động quốc tế ở Việt Nam và sự chi phối bởi quan niệm về hệ giá trị cũ đã làm suy giảm, lệch lạc nhu cầu coi trọng chất lượng lao động của trí thức GDĐH. Thực chất phương thức phát triển theo bề rộng cần ít sự sáng tạo trong lao động. Sự phân khúc giá trị và phân công lao động quốc tế ở nước ta bị qui định bởi tình trạng thiếu vốn, thiếu công nghệ, thiếu trị trường nên lâu nay nhu cầu nhân lực của đất nước là cần người làm thuê, người lắp ráp hơn người lao động sáng tạo với khả năng phát minh và sáng chế. Theo đó, các trường đại học trở thành nơi cung ứng nguồn nhân lực thừa hành và chất lượng lao động của trí thức GDĐH cũng tất yếu bị chuyển dịch theo hướng ấy. Đây là rào cản rất lớn nếu chúng ta không chủ động dỡ bỏ bằng quyết sách thay đổi phương thức phát triển theo chiều sâu và đổi mới tư duy định hướng giá trị về nguồn nhân lực mới đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước thì sự tách rời giữa nhà trường - trí thức GDĐH - doanh nghiệp và thị trường lao động ngày càng trở nên nghiêm trọng.

Để biểu hiện mình như một nhà khoa học chân chính, có những sản phẩm sáng tạo đích thực, trí thức GDĐH có nhu cầu mạnh mẽ về sự phát triển cá nhân và khẳng định tính độc lập của cá thể. Đáng tiếc là chính sách tôn


vinh, đãi ngộ và vấn đề sở hữu trí tuệ, bảo vệ bản quyền chưa được quan tâm, đảm bảo để tạo động lực cho lao động sư phạm của trí thức GDĐH. Cái khó hiện nay là chúng ta chưa có đủ kinh phí để đầu tư, đãi ngộ xứng đáng, chưa có chính sách vĩ mô về lương và điều kiện đảm bảo môi trường làm việc cho đội ngũ giảng viên có trình độ cao. Điều này nằm ngoài tầm với của các trường, trong khi nhân sách nhà nước còn eo hẹp. Thêm vào đó, tâm lý trọng bằng cấp một cách hình thức và cơ chế tính lương theo bằng cấp, theo thâm niên đang là rào cản không nhỏ trước yêu cầu thực học để có thực lực thực tài, thực cống hiến của trí thức GDĐH. Rõ ràng, thu nhập thấp, chưa tương xứng với đặc thù lao động trí tuệ, nhiều áp lực cộng thêm không ít phí tổn về đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ là nguyên nhân chính khiến nhiều năm gần đây thiếu những nhân tài có nguyện vọng, tâm huyết gia nhập hay gắn bó lâu dài với sự nghiệp “trồng người” cao quí. Việc thu hút thí sinh vào nghề sư phạm vì thế cũng trở nên khó khăn.

Do tác động tiêu cực từ mặt trái của cơ chế thị trường nên những biểu hiện thương mại hóa giáo dục có điều kiện phát triển. Một mặt, nó kìm hãm, gây trở lực cho việc phát huy tính năng động, sáng tạo trong lao động để đáp ứng nhu cầu, lợi ích chính đáng của cá nhân. Mặt khác, thay vì tâm huyết ươm mầm những hạt giống trí tuệ cho tương lai, một bộ phận trí thức GDĐH đã sa vào lối sống thực dụng, tiêu dùng, thờ ơ, phai nhạt lý tưởng. Tất cả những điều này ít nhiều đều làm suy yếu mối quan hệ giữa cá nhân và tập thể, giữa thầy và trò, giữa trách nhiệm và tâm huyết vốn là cơ sở nền tảng đảm bảo chất lượng lao động của đội ngũ trí thức GDĐH ở nước ta hiện nay.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 192 trang tài liệu này.

3.2.5. Chất lượng lao động của đội ngũ trí thức giáo dục đại học được đảm bảo bởi trách nhiệm của nhà giáo nhưng cơ chế kiểm tra, giám sát, đánh giá chưa được coi trọng đúng mức

Trình độ chuyên môn nghiệp vụ, năng lực nghiên cứu là nhân tố quyết định chất lượng lao động của trí thức GDĐH, song tinh thần trách nhiệm cũng là yêu cầu quan trọng mà mỗi trí thức nhà giáo phải quan tâm đáp ứng, nhất là trong bối cảnh hiện nay khi cơ chế thị trường đang chi phối đến đời sống của

Chất lượng lao động của đội ngũ trí thức giáo dục đại học Việt Nam hiện nay - 15


con người, tác động mặt trái của nó cũng để lại không ít những tiêu cực và hệ lụy xã hội.

Trong khi kỷ luật lao động nghiêm minh, tự giác với tinh thần trách nhiệm cao sẽ dần được hình thành dưới chủ nghĩa xã hội thì việc thiếu những điều kiện đảm bảo để đặc trưng ấy chiếm ưu thế trong đời sống là một thách thức đối với quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Kiểu lao động hình thức, tắc trách, thiếu tự giác rèn luyện, phấn đấu không chỉ tồn tại ngoài xã hội mà còn biểu hiện ở một bộ phận trí thức GDĐH. Những biểu hiện ấy nếu không được chấn chỉnh và khắc phục chắc chắn sẽ để lại những hậu quả tiêu cực trong chất lượng đào tạo nguồn nhân lực.

Sự đòi hỏi cao về tinh thần trách nhiệm đối với trí thức GDĐH cộng với cơ chế kiểm tra, giám sát khoa học, phù hợp sẽ giúp mỗi nhà giáo tự ý thức về sự đào thải như một lẽ tất yếu khó tránh khỏi nếu không ngừng vươn lên để khẳng định chất lượng hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ mà mình đảm nhận. Đây là điều kiện cần thiết và luôn tác động cùng chiều đến kết quả lao động của trí thức GDĐH.

Vấn đề bất cập hiện nay là việc qui trách nhiệm và cơ chế kiểm tra, đánh giá trí thức GDĐH ở nước ta còn bộc lộ nhiều hạn chế, ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng lao động của toàn đội ngũ. Ở hầu hết các trường đại học, việc đánh giá giảng viên mặc dù đã được tiến hành thường xuyên mang tính định kỳ nhưng vẫn nặng về đánh giá tổng kết, tức là chỉ mới nhằm vào việc thu thập thông tin để bình xét các danh hiệu thi đua hoặc phục vụ cho việc ra quyết định liên quan đến giảng viên trong các vấn đề như lên lương, bổ nhiệm chức vụ mà chưa gắn với những quyết định sa thải hay sàng lọc đội ngũ. “Các kiểu đánh giá này đôi khi để lại những dấu ấn tiêu cực như sự không hài lòng về tính khách quan của sự đánh giá, sự thờ ơ với các danh hiệu thi đua khen thưởng” [15, tr.18]. Tiêu chí đánh giá chưa rõ ràng, những chế tài qui định trách nhiệm lao động của trí thức GDĐH thiếu tính cụ thể, thiếu sự phân định rõ ràng về mức độ hoàn thành hay kết quả đóng góp của từng cá nhân. Việc đánh giá còn mang tính hình thức nên chưa thực sự là động lực thúc đẩy tinh thần trách nhiệm của mỗi trí thức GDĐH trong nâng cao chất lượng lao động.


Mặc dù Bộ Giáo dục và Đào tạo đã thành lập Cục khảo thí và Kiểm định chất lượng, theo đó ở mỗi trường đại học, Phòng Khảo thí và Đảm bảo chất lượng cũng đã chính thức thực hiện chức năng kiểm tra, giám sát, đánh giá chất lượng đào tạo của cơ sở giáo dục. Đó là nỗ lực rất lớn của Bộ Giáo dục và Đào tạo, của các trường đại học trước mối lo ngại ngày càng gia tăng về chất lượng hệ thống GDĐH Việt Nam. Tuy nhiên, trên thực tế công tác kiểm định chất lượng còn bộc lộ nhiều yếu kém. Tiêu chí kiểm định chất lượng giáo dục chưa được xây dựng phù hợp với những đặc thù nhất định ở từng trường; việc thanh tra, kiểm tra, giám sát đôi khi không sâu sát; hoạt động đánh giá ngoài, nhất là sự tham gia kiểm định chất lượng đào tạo từ các chủ thể sử dụng sản phẩm của GDĐH chưa được coi trọng đúng mức.

Mô hình quản lý GDĐH chưa tạo nên tính tự chủ, sáng tạo, năng động của từng chủ thể nhà giáo. Trách nhiệm giải trình trước xã hội của đội ngũ trí thức GDĐH về chất lượng giảng dạy, NCKH và quản lý giáo dục ở nước ta hiện nay chưa được chú trọng nâng cao. Trên thực tế, có những cơ sở đào tạo vì bệnh thành tích mà buông lỏng quản lý, hạ thấp chuẩn của chất lượng, thậm chí có những biểu hiện tiêu cực trong giảng dạy, NCKH và quá trình đánh giá chất lượng. Đặc biệt, ở nước ta hiện nay vẫn chưa có cơ chế kiểm soát rõ ràng từ bên ngoài đối với chất lượng lao động của đội ngũ trí thức GDĐH, hoạt động kiểm toán độc lập các cơ sở GDĐH cũng ít khi được thực hiện.

Thêm vào đó, việc đánh giá, kiểm tra, giám sát hoạt động chuyên môn của hiệu trưởng và cán bộ quản lý từng trường đại học còn bỏ ngỏ nên chất lượng lao động của đội ngũ trí thức GDĐH làm công tác lãnh đạo, quản lý ở nước ta chưa được xem xét, đánh giá toàn diện và khoa học. Hơn nữa, cơ chế sa thải những giảng viên yếu kém chưa trở thành yếu tố căn bản được chú trọng trong văn hóa và khoa học lãnh đạo, quản lý của ngành giáo dục nói chung, GDĐH nói riêng. Điều này lý giải tại sao trí thức GDĐH chưa nhận thấy áp lực thực sự từ trách nhiệm và bổn phận của một nhà khoa học trước những yêu cầu, những đòi hỏi của thực tiễn cũng như sự mong đợi và kỳ vọng của xã hội.


Kết luận chương 3


Phát triển và hiện đại hóa GDĐH, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước là trọng trách mà đội ngũ trí thức GDĐH Việt Nam đã đảm nhận từ sự ủy thác, tin cậy cũng như sự kỳ vọng của nhân dân và xã hội. Thực hiện những điểm cốt yếu trên đây thuộc về vai trò và trách nhiệm “trồng người”, trí thức GDĐH Việt Nam đã biểu hiện mình là lực lượng cơ bản của khối liên minh công - nông - trí thức, là động lực quan trọng trong công cuộc đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước.

Theo đường hướng của tư duy đổi mới cơ bản, toàn diện về giáo dục, chất lượng lao động của đội ngũ trí thức nhà giáo ở bậc đại học đã từng bước được nâng lên nhưng nhìn chung còn có những thiếu hụt, hạn chế nhất định trước đòi hỏi của thực tiễn với không ít mâu thuẫn cần sớm được quan tâm, khắc phục. Đó là mâu thuẫn giữa trình độ, năng lực hiện có của đội ngũ trí thức nhà giáo với yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho đất nước; yêu cầu kết hợp giảng dạy và NCKH, trong khi khuynh hướng xem nhẹ NCKH đang diễn ra phổ biến; những rào cản đối với việc đảm bảo chất lượng lao động của trí thức nhà giáo đang làm sâu sắc thêm thách thức tạo lập sự phát triển bền vững của GDĐH; năng lực sáng tạo của nhà giáo cần được giải phóng triệt để nhưng thực tế lại thiếu điều kiện đảm bảo; trách nhiệm của trí thức nhà giáo phải được nâng cao trong khi cơ chế kiểm tra, giám sát, đánh giá chưa được coi trọng đúng mức.

Nhìn nhận những mâu thuẫn nêu trên từ yêu cầu phát triển bền vững, có thể nói, đây thực sự là nguy cơ, thách thức rất lớn mà đội ngũ trí thức GDĐH phải sớm vượt qua bằng quyết tâm và nỗ lực cải cách triệt để nhằm nâng cao chất lượng lao động của đội ngũ nhà giáo đại học trong điều kiện gia tăng cạnh tranh và hội nhập.


Chương 4

QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG LAO ĐỘNG CỦA ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC GIÁO DỤC ĐẠI HỌC

VIỆT NAM HIỆN NAY


4.1. QUAN ĐIỂM CƠ BẢN VỀ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG LAO ĐỘNG

CỦA ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC GIÁO DỤC ĐẠI HỌC VIỆT NAM HIỆN NAY

4.1.1. Nâng cao chất lượng lao động của đội ngũ trí thức giáo dục đại học Việt Nam phải gắn với nhu cầu phát triển đất nước

Việt Nam đang trong quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH, phát triển kinh tế tri thức và chủ động hội nhập quốc tế. Bối cảnh ấy đòi hỏi trí thức GDĐH phải lao động có năng suất, hiệu quả và không ngừng nâng lên để tạo ra những sản phẩm có giá trị phục vụ nhu cầu phát triển theo chiều sâu của nền kinh tế, đồng thời tạo lợi thế cạnh tranh trên thị trường toàn cầu.

Chất lượng lao động của trí thức GDĐH góp phần làm tăng tiềm lực trí tuệ của quốc gia, do đó trí thức GDĐH Việt Nam cần hướng lao động chuyên môn của mình tới mục tiêu nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài nhất là nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước. Đó là nhân lực có đủ trình độ, năng lực để lao động với hiệu quả cao và có khả năng hợp tác quốc tế; có năng lực tạo nghiệp, tiến thân, lập nghiệp trong thị trường sức lao động. Đó cũng là những công dân lao động trách nhiệm, tâm huyết đem tài năng, trí tuệ và công sức của mình phụng sự nhân dân, phụng sự Tổ quốc.

Lao động của trí thức GDĐH phải hướng đến nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức, kỹ năng sống, kỹ năng nghề nghiệp, năng lực thực hành, năng lực sáng tạo, năng lực ngoại ngữ và tin học cho nguồn nhân lực. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI xác định, nền giáo dục Việt Nam cần chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học, từ chủ yếu theo số lượng sang chú trọng chất lượng và hiệu quả, đồng thời đáp ứng yêu cầu số lượng. Đây là


định hướng quan trọng đòi hỏi trí thức GDĐH Việt Nam phải hiện thực hóa

trong thực tiễn bằng chất lượng lao động của toàn đội ngũ.

Để đáp ứng nhu cầu nhân lực trình độ cao phục vụ quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH, phát triển kinh tế tri thức, tích cực và chủ động hội nhập quốc tế, lao động của trí thức GDĐH cần hướng tới việc cung ứng cho thị trường 5 nhóm nhân lực theo định hướng của Đảng, với các tiêu chí cụ thể:

- Các nhà lãnh đạo quản lý: có bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức trong sáng, vì nước, vì dân, có kiến thức hiện đại, có tư duy đổi mới, có tầm nhìn xa và có kỹ năng quản lý. Đó là các công chức, chuyên viên giỏi chuyên môn, nghiệp vụ; các công nhân kỹ thuật bậc cao, sử dụng thành thạo máy móc, công nghệ hiện đại, có tác phong lao động công nghiệp và kỷ luật lao động tự giác.

- Các nhà văn hóa, khoa học tài năng có kiến thức sâu rộng, có sức sáng tạo, góp phần thúc đẩy khả năng cạnh tranh của nền kinh tế và giữ gìn phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong quá trình hội nhập quốc tế.

- Các doanh nhân tâm huyết với đất nước, có khả năng quản lý doanh nghiệp để tạo ra những sản phẩm hàng hóa đủ sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế.

- Đội ngũ thợ lành nghề có đủ năng lực ứng dụng thành tựu khoa học kỹ

thuật và công nghệ hiện đại để nâng cao năng suất lao động.

- Lực lượng lao động tinh hoa có tay nghề cao, có khả năng sử dụng công nghệ, kỹ thuật tiên tiến, có khả năng ứng dụng và sáng tạo trong lao động, đặc biệt là các chuyên gia có khả năng phát minh, sáng chế, chuyển giao công nghệ, trao đổi chuyên môn, học thuật với lực lượng chuyên gia ở các nước phát triển.

Chất lượng lao động của đội ngũ trí thức GDĐH phải hướng tới phát triển hài hòa, cân đối giữa các vùng, miền, từng bước khắc phục sự hẫng hụt đội ngũ kế cận có trình độ cao và sự mất cân đối trong cơ cấu trình độ, chức danh và năng lực giữa các vùng miền, các loại hình trường và các chuyên ngành đào tạo đảm bảo phù hợp với quy hoạch phát triển nhân lực quốc gia trong lĩnh vực giáo dục đào tạo.

Xem tất cả 192 trang.

Ngày đăng: 21/11/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí