Sự Tương Đồng Và Khác Biệt Cơ Bản Về Cấu Trúc Phủ Định Giữa Tiếng Hán Và Tiếng Việt

使真姓赵,有赵太爷在这里,也不该如此胡说的。

Dịch: Những người biết chuyện đều nói A Q. láo xược quá, tự mình chuốc lấy đòn, chứ chưa chắchắn là họ Triệu; mà dù cho thật họ Triệu đi nữa, trước mặt ông cụ Triệu cũng không nên ngang bướng như thế. [105]

(188)“Từ trước tới nay nó chưa từng chịu thua trí thằng địch bao giờ.”

[77]

c) Về phương thức vị trí của các yếu tố

Trong tiếng Hán và tiếng Việt đều có thể phủ định theo phương thức phủ định toàn bộ câu, từ phủ định có thể đứng trước nòng cốt câu hoặc vị ngữ của câu tiến hành sự phủ định toàn bộ. Ví dụ:

(189)“连你也来欺侮我!会帮忙,只会捣乱, ——连油灯也要翻

了他。晚上点什么?……”

Dịch: Cả đến mày cũng làm khổ tao, không đỡ được việc gì hết, chỉ quấy, cả đến cái đèn dầu cũng đổ đi cho được. Tối rồi lấy gì mà thắp?... [117]

(190)“Không đợi đến hai tiếng, chị Gái hớn hở chạy về...” [74]

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 105 trang tài liệu này.

Ngoài ra, những từ phủ định trong tiếng Hán và tiếng Việt còn có thể đứng trước những sự tình cần phủ nhận, để tạo ra cấu trúc phủ định bộ phận. Ví dụ:

(191)“唉唉,我的思路怎么会这样乱,这好题目怕是做不完篇的了。

Câu phủ định tiếng Hán trong sự đối chiếu với tiếng Việt - 10

Dịch: Ê ê, mình sao lại nghĩ xằng nghĩ xịt như vậy, cái đầu đề hay thế mà e có lẽ viết không thành bài. [117]

(192)“Hai thân Điền bán cả ruộng, vườn đi để cho Điền đi học chẳngphí đâu.” [75]

3.1.2 Sự khác nhau về phương thức phủ định

Phương thức phủ định giữa tiếng Hán và tiếng Việt có nhiều điểm tương đồng nhưng cũng có không ít những dị biệt. Về phương thức vị trí của các yếu tố, tiếng Hán và tiếng Việt đều có sự phân loại khác nhau.

Trong phương thức phủ định, sự phân chia của tiếng Hán và tiếng Việt không giống nhau hoàn toàn. Phương thức phủ định trong tiếng Hán được chia ra thành phủ định ngữ nghĩa và phủ định ngữ dụng; còn trong tiếng Việt lại được chia ra thành phủ định toàn bộ và phủ định bộ phận. Trong đó, phương thức phủ định toàn bộ có dạng phủ định “từ phủ định + đại từ phiếm định”. Trong tiếng Việt, phương thức này có thể thiết lập được, nhưng trong tiếng Hán

còn phụ thuộc vào từ phủ định. Chẳng hạn, đối với từ phủ định “ ” và “

không thể áp dụng phương thức phủ định này, nhưng với từ phủ định “ ” có thể dùng phương thức này. Cụ thể:

(193)“看见的人报告说,河里面上午就泊了一只白篷船,篷是全盖起来的,不知道什么人在里面,但事前也没有人去理会他。”(+)

看见的人报告说,河里面上午就泊了一只白篷船,篷是全盖起来的,不知道什么人在里面,但事前也/人去理会他。”(-)

Dịch: Người nhìn thấy, kể lại rằng: Trước buổi trưa, ở bến sông có một chiếc thuyền mui trắng đậu, mui che kín cả, không biết những người nào ở trong, mà khi việc chưa xảy ra cũng chẳng/không/chả aiđể ý đến. (+) [121]

3.2 Sự tương đồng và khác biệt cơ bản về cấu trúc phủ định giữa tiếng Hán và tiếng Việt

Có một số điểm tương đồng và khác biệt trong cấu trúc phủ định ở tiếng

Hán và tiếng Việt. Như chúng tôi đã đề cập, từ phủ định “ ” trong tiếng Hán thường tương ứng với từ phủ định “không” trong tiếng Việt. Trong phần này

chúng tôi sẽ tiến hành so sánh cấu trúc phủ định của “ ” và “không” . Đối

với trường hợp của “” trong tiếng Hán, chúng tôi so sánh cấu trúc phủ định với từ phủ định “chẳng/chả” trong tiếng Việt bởi giữa chúng có những sự

tương ứng nhất định trong hành chức.

Trường hợp còn lại là của “”. Trong tiếng Hán, “” là một từ đặc biệt mang nghĩa ngăn chặn. Không có từ phủ định tương ứng nào với tiếng Việt đối

với trường hợp của “ ”. Do vậy, chúng tôi xếp “ ” vào nhóm ngoại lệ để phân tích.

3.2.1 Sự tương đồng và khác biệt về cấu trúc phủ định giữa “” và “không”

Quá trình so sánh sự giống nhau và khác nhau về khả năng tác động và

cấu trúc phủ định giữa cấu trúc phủ định của từ phủ định “” và “không” được tiến hành như sau:

3.2.1.1 Khả năng tác động

A. Những điểm tương đồng

Về khả năng tác động, từ phủ định “” trong tiếng Hán và “không” trong tiếng Việt có 4 điểm giống nhau:

a) Từ phủ định làm thành câu không có chủ ngữ

Bất kể là từ phủ định “” hay từ phủ định “không” đều có thể đứng riêng một mình làm thành câu không có chủ ngữ:

(194)“惩一儆百!你看,我做革命党还不上二十天,抢案就是十几件,

全不破案,我的面子在那里?破了案,你又来迂。成!这是我管的!

Dịch: "Phải giết một đứa để răn trăm đứa khác chứ! Ông xem, tôi làm cách mạng chưa đầy hai mươi hôm, có đến mười mấy đám cướp mà chẳng phá

được đám nào cả, tôi còn mặt mũi nào? Bây giờ phá được một đám, ông lại đâm ngang. Không được! đây là việc thuộc phần tôi cai quản! " [105]

(195)“Hắn lại càng khóc to hơn và cố nói qua tiếng khóc:

- Anh... anh... chỉ là... một thằng... khốn nạn!...

- Không!... Anh chỉ là một người khổ sở!... Chính vì em mà anh khổ...”

[70]

b) Từ phủ định tác động lên chủ ngữ của câu

Có hai hình thức từ phủ định có khả năng tác động lên chủ ngữ trong tiếng Việt. Đó là: (1) cấu trúc “không + phải + danh từ”; và (2) cấu trúc “không +

danh từ”. Trong đó, cấu trúc “không + phải + danh từ” giống với cấu trúc “ +

” trong tiếng Hán. Chẳng hạn:

(196)“不是荒年,怎么会吃人。

Dịch: “Không phảinăm mất mùa, làm gì có chuyện ăn thịt người”. [111] (197)“Không phải ý chúng cháu suy nghĩ bi quan chết chóc gì đâu.” [78]

c) Từ phủ định tác động lên phần còn lại của câu

Trong loại cấu trúc này, tiếng Việt có hai dạng: (1) từ phủ định “không” đứng trước phần còn lại của câu; và (2) từ phủ định “không” đứng sau phần còn lại của câu. Đặc điểm này cũng được thể hiện trong tiếng Hán. Theo đó, từ phủ

định “” đứng trước phần còn lại của câu như cấu trúc trong tiếng Việt. Chẳng

hạn:

(198)倘是别的闲人们,阿 Q 不敢大意坐下去

Dịch: Giá như gặp kẻ khác, A Q. thậtkhông dám táo gan ngồi như vậy.

[105]

(199)Trên cổ nó còn có một xâu chuỗi, không phải chuỗi hạt trai, mà làchanh trái xỏ qua một sợi kẽm. [79]

d) Từ phủ định tác động lên vị tố của câu

Từ phủ định “” trong tiếng Hán và từ phủ định “không” trong tiếng Việt đều có thể tác động lên vị tố của câu. Chẳng hạn:

(200)云南贵州不知道怎样,但交通也太不便……

Dịch: Không biết Vân Nam, Quý Châu thì thế nào, song giao thông cũng quá không tiện... [117]

(201)Vọi suy nghĩ hồi lâu rồi nói: - Tôi không biết! [79]

B. Những điểm khác biệt

Bên cạnh 04 đặc điểm giống nhau kể trên, từ phủ định “ ” trong tiếng Hán và “không” trong tiếng Việt có những điểm khác nhau như sau:

a) Từ phủ định tác động lên chủ ngữ của câu

Trong tiếng Việt có thể dùng cấu trúc “không + danh từ”. Tuy nhiên, tiếng Hán lại không dùng cấu trúc tương ứng “ + danh từ” để biểu thị. Chẳng hạn:

(202)“不是荒年,怎么会吃人。” (+)

荒年,怎么会吃人。” (-)

Dịch: "Không phải năm mất mùa, làm gì có chuyện ăn thịt người". [111] (203)Trên bãi này không aibắt được đâu. [79]

b) Từ phủ định tác động lên bổ ngữ của câu

Tuy từ phủ định “” và từ phủ định “không” đều có thể tác động lên bổ ngữ, nhưng cấu trúc phủ định lại khác nhau. Trong tiếng Hán, cấu trúc từ phủ

định “” tác động lên bổ ngữ là: “chủ ngữ ++ bổ ngữ”, còn cấu trúc từ phủ định “không” tác động lên bổ ngữ trong tiếng Việt là “chủ ngữ + không + vị tố

+ bổ ngữ” hoặc “không + phải + C”. Chẳng hạn:

(204)其三,他虽然记不清多少日,但确乎有许多日,没有一个人来叫他做短工。

Dịch: ba là hắn không nhớ rõ bao nhiêu ngày, mà chắc đã lâu lắm rồi, không có một người nào đến gọi hắn đi làm vặt. [105]

(205)Tôi không gặp nhiều anh chị ở đó. [78]

c) Từ phủ định tác động lên phần còn lại của câu

Khác với từ phủ định tác động lên phần còn lại của câu trong tiếng Hán, từ phủ định “không” trong tiếng Việt còn có thể đứng sau phần còn lại của câu, chẳng hạn:

(206)倘是别的闲人们,阿 Q 不敢大意坐下去(+)

倘是别的闲人们,阿 Q 坐下去不敢大意。(-)

Dịch: Giá như gặp kẻ khác, A Q. thậtkhông dám táo gan ngồi như vậy.

[105]

(207) Trên cổ nó còn có một xâu chuỗi, không phải chuỗi hạt trai, mà làchanh trái xỏ qua một sợi kẽm. (+)

Trên cổ nó còn có một xâu chuỗi, là chanh trái xỏ qua một sợi kẽm,

không phải chuỗi hạt trai.(+) [79]

3.2.1.2 Cấu trúc phủ định

Cấu trúc phủ định “ ” với cấu trúc phủ định “không” cũng có rất nhiều điểm tương đồng và khác biệt:

A. Những điểm tương đồng

Có 3 điểm tương đồng về cấu trúc phủ định giữa “” và “không”:

a) Cấu trúc phủ định: “Từ phủ định + động từ/ động từ đoản ngữ”

Trong cấu trúc có phủ định “ ” và “không” có thể cùng kết hợp với những động từ sau:

a.1) Từ phủ định + V/VP (động tác)

Động từ hành vi động tác là những từ biểu thị hành vi động tác cụ thể, có tính tiếp nối liên tục. Từ phủ định thường đứng trước động từ, biểu thị phủ định

hành động, sự phát triển của một sự vật nào đó, gồm những từ như: (nghe)

(nói) , 学习(học) , 买(mua) , 洗(giạt(áo), rửa(bát), rũ, đánh(giầy) , 打

(đánh),跳(nhẩy),休息(nghỉ ngơi) v.v...

Cấu trúc phủ định này chủ yếu phủ định những hành vi động tác mà con người tạo ra. Ví dụ:

(208)二人都是太平天国的领袖。他们领导的起义军都留发而不结辫

被称为长毛

Dịch: Họ đều là lãnh tụ của Thái Bình thiên quốc. Quân khởi nghĩa của họ phải để tóc dài như hồi nhà Minh nhưng không buộc lên, cho nên Mãn Thanh gọi họ là "giặc tóc dài". [116]

(209)Thầy có vẻ không nghe thấy, bởi thầy không đáp lại. U sợ thầy gắt, không hỏi nữa. [65]

a.2) Từ phủ định + V/VP( tâm trạng)

Động từ tâm trạng là những từ biểu thị trạng thái tâm lý của con người như yêu thích, ghét, cảm nhận, tri nhận, bỏ quên v.v... trong đó có 3 nhóm là:

(1) nhóm từ thích – ghét như (yêu), 喜欢(thích),讨厌(ghét) v.v...(2)

nhóm từ nghi ngờ, chẳng hạn 相信(tin tưởng),怀疑(nghi ngờ),承认(thừa

nhận) v.v...; và (3) nhóm từ hiểu biết:知道(biết),了解(hiểu),清楚(rõ),愿 (mong) v.v...

Cấu trúc phủ định loại này chủ yếu phủ định tâm trạng và sự hiểu biết về một thứ gì đó của con người. Ví dụ:

(210)父亲是一个胖子,走过去自然要费事些。我本来要去的,他不肯

只好让他去。

Dịch: Bố người to béo, tới được đó mà mua vài trái quít thì mệt lắm. Tôi muốn đi thay nhưng bố không chịu, đành để bố đi vậy. [124]

(211) Nó lấm lét lảng dần, cũng không dámchạy một cách thẳng thắn để đi trốn nữa. [66]

a.3) Từ phủ định + V/VP(quan hệ)

Động từ quan hệ là những từ biểu thị sự phán đoán, tồn tại, so sánh, thuộc

tính v.v... của một sự vật nào đó. Chúng là những từ mang nghĩa trừu tượng như:

(họ(tên),属于(thuộc),有(có),是(là),等于(bằng),当做(gọi là) v.v...

Cấu trúc phủ định này chủ yếu phủ định quan hệ thuộc tính của một sự vật nào đó, ví dụ:

(212)“唔,……这个……”Q 候他略停,终于用十二分的勇气开口

了,但不知道因为什么,又并不叫他洋先生。

Dịch: "À, cái này... A Q. lừa khi tạm ngừng câu chuyện, đánh bạo mở miệng thốt được mấy lời nhưng không biết vì sao lại không gọi là "ông tây".

[105]

(213)Nhưng có điều tôi dám quyết với anh là bức tranh đó không có bạc vàng nào trên đời này sánh nổi. [77]

Nói chung, từ phủ định “ ” trong tiếng Hán và từ phủ định “không”

trong tiếng Việt đều có thể kết hợp với những động từ chỉ hành động, tâm trạng của con người.

b) Cấu trúc phủ định “Từ phủ định + tính từ”

Tiếng Hán và tiếng Việt đều có thể sử dụng cấu trúc này để phủ định một tính chất hay trạng thái của một sự vật nào đó, chẳng hạn:

(214)“原来有保险灯在这里!他们并不怕

Dịch: Chúng nó chẳng thèm sợ, tiếp thêm: Té ra là có cái đèn bão ở đây!

[105]

(215) Hồng cũng chẳng hiểu tại sao u bỗng nhiên sinh khó tính như thế vậy. Chỉ biết: đã ít lâu nay, cả thầy lẫn u đều có vẻ không vui. [65]

B. Những điểm khác biệt

a) Cấu trúc phủ định “Từ phủ định + động từ/ ngữ động từ ”a.1) Từ phủ định +V/ VP (quan hệ)

Động từ quan hệ là những từ biểu thị sự phán đoán, tồn tại, so sánh, thuộc tính v.v... Theo quan sát của chúng tôi, từ “ (có)” không thể kết hợp với từ phủ định “ ” nhưng lại có thể kết hợp với từ phủ định “không”. Ví dụ:

(216)然而阿 Q 没有说(+)

然而阿 Q 不有说(-)

Dịch: A Q. tính kêu lên nhưng rồikhông /không có kêu. (+) [105] a.2) Từ phủ định + V/VP (hoạt động tâm lý)

Động từ hoạt động tâm lý biểu thị những hoạt động tư duy của con người, chúng có tính nối tiếp liên tục, và những từ này gồm: (nghĩ),猜(đoán),考虑(suy nghĩ),回忆(ký ức) v.v... Với những từ này, không thể kết hợp với từ

phủ định “ ” trong tiếng Hán nhưng lại có thể kết hợp với từ phủ định “không” trong tiếng Việt. Chẳng hạn:

(217)他虽然早知道秀才盘辫的大新闻,但总没有想到自己可以照样

做,现在看见赵司晨也如此,才有了学样的意思,定下实行的决心。(+)

他虽然早知道秀才盘辫的大新闻,但总想到自己可以照样做,现在看见赵司晨也如此,才有了学样的意思,定下实行的决心。(-

Dịch: Hắn tuy đã biết qua câu chuyện cậu Tú quấn bín, nhưng hắn khônghề/chẳng(chả) hề nghĩ rằngchính mình hắn cũng có thể làm thế được, bây giờ thấy Triệu Tư Thần cũng làm thế, hắn bèn có ý bắt chước và quyết định làm theo. (+) [105]

a.3) Từ phủ định + V/VP (giây lát)

Động từ giây lát là những từ diễn tả hành động xảy ra trong một khoảng thời gian ngắn hoặc khoảng cách giữa khởi điểm và điểm đích của một động tác nào đó rất ngắn. Chúng không có tính nối tiếp về mặt thời gian, chẳng hạn

những từ như: (chết),结束(kết thúc),到达(đến nơi),停止(dừng lại),开

(bắt đầu),发现(phát hiện),认出(nhận ra),看到(nhìn thấy),牺牲(hy sinh) v.v...

Cấu trúc phủ định chủ yếu phủ định những hành động mang tính giây lát, không có tính nối tiếp liên tục. Ví dụ:

(218)车子不住的前行,阿 Q 在喝采声中,轮转眼睛去看吴妈,似乎

伊一向并没有/见他,却只是出神的看着兵们背上的洋炮。(+)

车子不住的前行,阿 Q 在喝采声中,轮转眼睛去看吴妈,似乎伊一

向并见他,却只是出神的看着兵们背上的洋炮。(-)

Dịch: Cỗ xe cứ đi tới. A Q. ở trong những tiếng reo hò, liếc mắt nhìn u Ngò, mụ hình như chưa hề/không hề/chẳng(chả) hề trông thấyhắn, chỉ trâng tráo nhìn những khẩu súng trên vai bọn lính. (+) [105]

Nói chung, đối với những động từ không thể kết hợp với từ phủ định “

trong tiếng Hán, chúng thường kết hợp với một từ phủ định khác là “ ”. Trong khi đó, những từ tương đương trong tiếng Việt thường kết hợp với từ phủ định

“không”. Về phạm vi sử dụng, từ phủ định “ ” trong tiếng Hán không rộng bằng từ phủ định “không” trong tiếng Việt.

b) Cấu trúc phủ định “Từ phủ định + danh từ/ danh ngữ”

Trong tiếng Việt, từ phủ định “không” có thể kết hợp với danh từ/danh

ngữ để tạo câu phủ định, nhưng ở trong tiếng Hán, từ phủ định “ ” lại không thể kết hợp với danh từ. Trong trường hợp muốn phủ định danh từ cần phủ

định, cần phải thêm từ “ ” ở phía sau “ ”, tạo thành cấu trúc “ + + danh từ/danh ngữ”. Ví dụ:

(219)他忽而听得一种异样的声音,又不是爆竹。(+)

他忽而听得一种异样的声音,又爆竹。(-)

Dịch: Hắn thình lình nghe thấy một thứ tiếng lạ mà lại không phải tiếngpháo. [105]

(220) Cái thằng không cha không mẹnày! [67]

c) Cấu trúc phủ định “Từ phủ định + trạng từ”

Cấu trúc phủ định “từ phủ định+ trạng từ” có thể sử dụng trong tiếng Việt dùng để phủ định tính chất của một sự vật nào đó. Tuy nhiên, trong tiếng Hán,

chỉ có từ phủ định “ ” có thể kết hợp với trạng từ, còn “ ” thì không thể.

Chẳng hạn như:

(221)他们那时候的脸色,全没有昨天这么怕,也没有这么凶。(+

他们那时候的脸色,全昨天这么怕,也没有这么凶。(-

Dịch: mà lúc bấy giờ bộ mặt của họ không hềcó vẻ đáng sợ như ngày hôm qua, và cũng không hề hung tợn như thế đâu. [111]

(222)Nhưng này, anh Chí ạ, anh muốn đâm người cũng không khógì.

[67]

3.2.2 Sự tương đồng và khác biệt về cấu trúc phủ định giữa “ ” và “chẳng/chả”

Khảo sát từ phủ định “ ” trong sự tương ứng với từ phủ định “chẳng/chả” ở phạm vi nghiên cứu nêu trên, chúng tôi đã nhận thấy có sự

tương đương về kết hợp của những từ này với danh từ, động từ, trạng từ v.v... Trong phần này chúng tôi sẽ tiếp tục tiến hành so sánh những điểm tương đương, và tìm ra sự khác biệt về cách dùng giữa chúng.

3.2.2.1 Về khả năng tác động

Từ phủ định “” và “chẳng/chả” có một số điểm tương đồng và khác biệt như sau:

A. Những điểm tương đồng

Thông qua khảo sát từ phủ định “” mang nghĩa “chẳng/chả” và ngược lại, trong tác phẩm các văn học của Lỗ Tấn, Chu Tự Thanh, Nam Cao, Anh

Đức, chúng tôi nhận thấy, hai từ phủ định này có sự giống nhau về tầm tác động với hai phương thức sau:

a) Từ phủ định kết hợp với vị từ tác động lên vị ngữ của câu

Từ phủ định “” và từ phủ định “chẳng/chả” đều có thể kết hợp với vị từ.

Xem tất cả 105 trang.

Ngày đăng: 25/02/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí