Các Phương Thức Tiêu Điểm Hoá Cấu Trúc Chủ- Vị Câu Tiếng Việt

Bên cạnh yếu tố trên, để nhấn mạnh thông tin mang nghĩa phủ định, tiếng Việt còn sử dụng những yếu tố phủ định hay hạn định như những hư từ ngữ pháp hay tình thái như chẳng, hề, chẳng hề, không hề, tuyệt nhiên…. Ví dụ:

[1:13] Chưa bao giờ chúng dám mong có được số tiền to đến thế.

(VTP:38)

Trên cơ sở lí thuyết này đánh dấu này, chúng tôi đã áp dụng vào khảo sát hiện tượng tiêu điểm của câu tiếng Việt. Bởi một yếu tố có tính đánh dấu càng cao thì giá trị tiêu điểm thông tin mà nó thể hiện càng lớn. Đó cũng là phần cơ sở nền tảng để tiến hành luận văn này.


1.3. Tiểu kết

Trong chương này, chúng tôi đã trình bày các cơ sở phân tích câu theo quan điểm của ngữ pháp chức năng đặc biệt là thành tố về thông tin cơ sở và tiêu điểm thông tin là trọng tâm cho việc khảo sát, lí giải về hiện tượng tiêu điểm hoá cấu trúc câu tiếng Việt. Cũng trong chương này, chúng tôi có đề cập tới thuật ngữ "đánh dấu" làm nền tảng cho việc khảo sát dữ liệu một cách sâu sắc.

Như chúng tôi đã nhận thức rất rõ rằng ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất của con người. Do đó, một hoạt động giao tiếp bên cạnh việc trao đổi thái độ, tình cảm của người nói/ viết với người đọc/ nghe thì mục đích quan yếu chính là cung cấp thông tin. Nên giới hạn của luận văn này là tập trung vào tiêu điểm thông tin. Vấn đề đặt ra là có những phương tiện và cách thức nào giúp người nói biểu đạt được cái thông tin mang tính tiêu điểm đó. Đấy chính là nhiệm vụ của chúng tôi trong hai chương tiếp theo.

CHƯƠNG 2. CÁC PHƯƠNG THỨC TIÊU ĐIỂM HOÁ CẤU TRÚC CHỦ- VỊ CÂU TIẾNG VIỆT

2.1. Cơ sở xác định tiêu điểm thông tin

2.1.1. Ngữ cảnh

Khi xác định tiêu điểm của cấu trúc thông tin không thể không nhắc tới ngữ cảnh. Giorge Yule dùng thuật ngữ ngữ cảnh (context) và văn cảnh (co-text), ngữ cảnh là một môi trường phi ngôn ngữ trong đó ngôn ngữ được sử dụng.

Nguyễn Thiện Giáp phân biệt hai khái niệm: ngữ cảnh tình huống ngữ cảnh văn hoá. Tác giả cho rằng: "Ngữ cảnh tình huống là thế giới, xã hội và tâm lý mà trong đó, ở một thời điểm nhất định người ta sử dụng ngôn ngữ. Nó có thể bao gồm sự hiểu biết về vị thế của người nói và người nghe, sự hiểu biết về vị trí, thời gian và không gian, sự hiểu biết về phép xã giao trong xã hội và sự hiểu biết về mã ngôn ngữ được dùng (nói hoặc viết), sự hiểu biết về nội dung giao tiếp và bối cảnh giao tiếp". Và đôi khi "ngữ cảnh tình huống còn có cả sự chấp nhận ngầm của người nói và người nghe" [Nguyễn Thiện Giáp 2004:23]. Còn "ngữ cảnh văn hoá bao gồm hàng loạt nhân tố văn hoá như phong tục, tập quán, chuẩn tắc hành vi, quan niệm giá trị, sự kiện lịch sử, những tri thức về tự nhiên và xã hội, về chính trị và kinh tế". Như vậy, theo cách hiểu rộng, ngữ cảnh được coi là những nhân tố có mặt trong một cuộc giao tiếp nhưng nằm ngoài diễn ngôn (vai giao tiếp, hoàn cảnh giao tiếp,…)

Theo Từ điển tiếng Việt: "Ngữ cảnh là toàn bộ nói chung những đơn vị đứng trước và đứng sau một đơn vị ngôn ngữ đang xét, quy định ý nghĩa và giá trị cụ thể của đơn vị ngôn ngữ đó trong chuỗi lời nói" [34,861]. Đây có thể coi là một cách hiểu ngữ cảnh theo nghĩa hẹp.

Đối với các văn bản viết, chúng tôi xác định ngữ cảnh theo nghĩa hẹp bao gồm những phát ngôn đặt trước và đặt tiếp sau phát ngôn cần xác định tiêu điểm thông tin. Việc hiểu như vậy cũng giúp chúng tôi dễ dàng xác định phần cơ sở và tiêu điểm trong một cấu trúc thông tin.

Trong diễn ngôn đối thoại, câu hỏi là yếu tố quan trọng của ngữ cảnh giúp xác định cấu trúc thông tin trong câu trả lời. Những loại câu hỏi có thể là:

- Câu hỏi hiển ngôn: là loại câu hỏi mà cả phần thông tin đã biết và phần tin mà người nói muốn biết có thể cùng xuất hiện ngay trên bề mặt của cấu trúc cú pháp câu. Do đó, tiêu điểm thông tin của câu là phần mà trả lời trực tiếp cho câu hỏi. Ví dụ:

[2:1] a. Chị làm công tác ?

b. Tôi trông nom thư viện của nhà máy.

(TNT: 264)

Câu hỏi đã dẫn gồm hai phần: "Chị làm công tác" được coi là thông tin đã biết hoặc dễ nhận biết còn "gì" là điều chưa biết, cần biết. Hai phần này xuất hiện trực tiếp trên cấu trúc bề mặt của câu hỏi. Căn cứ vào đó mà ta dễ dàng xác định rằng chỉ có "trông nom thư viện của nhà máy" là thông tin mới, thông tin trả lời cho điều cần biết được nêu ra trong câu hỏi.

Khi trả lời cho câu hỏi thuộc dạng này, người trả lời có thể dùng câu đầy đủ hoặc tỉnh lược. Ví dụ:

[2:2] a. Ông ở quận nào?

b. Quận Thạnh - phú.


[2:3] a. Thế anh ấy ở đâu?

b. Anh ấy phải ở nhà thu xếp để đón em.

(NĐT: 32)


(TNH2: 205)

Với những câu hỏi mà cấu trúc nổi (cấu trúc cú pháp) chỉ xuất hiện từ để hỏi với tư cách là thông tin cần biết thì câu trả lời chỉ toàn tin mới. Ví dụ:

[2:4] a. Sao?

b. Lớn lên, nó sẽ bất bình về việc em lại cải giá. (VTP: 235) Trong câu hỏi ở ví dụ trên chỉ có phần thông tin cần biết là đại từ nghi vấn "sao". Tin đã biết nằm ở ngôn cảnh với tư cách như các tiền giả định của câu hỏi. Chúng ta không thể hiểu được cặp thoại hỏi - trả lời ở đây là hỏi và trả lời về vấn đề gì khi không đặt nó vào một ngữ cảnh cụ thể: cuộc trò chuyện giữa hai nhân vật về việc cải giá hay không cải giá. Câu trả lời của nhân vật nữ đưa ra nguyên nhân khiến cô không thể cải giá. Đó chính là phần tin hoàn toàn mới đối với người đang chờ đợi câu trả lời.

- Câu hỏi hàm ẩn: là loại câu hỏi không xuất hiện trực tiếp trên bề mặt của phát ngôn mà được rút ra từ ngữ cảnh tình huống có chứa câu cần xác định tiêu điểm thông tin.

Đối với những câu hỏi loại này, ngữ cảnh có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định cấu trúc thông tin trong câu trả lời. Điều này có thể thấy rõ khi cùng một câu hỏi, cùng một câu trả lời nhưng nếu đặt câu hỏi - trả lời này ở hai hay nhiều ngữ cảnh, tình huống giao tiếp khác nhau thì ý nghĩa hàm ẩn (tin mới) trong câu trả lời có sự khác nhau. Ví dụ:

[2:5] a. Thế này mà bảo không phải thuốc cao?

b. Thôi, tôi chịu ông rồi mà!... Ở vùng này chỉ có một ông biết

nghề thuốc!

(VTP: 188)

Trong cặp thoại trên, nhân vật trong phát ngôn (a) hỏi người trong phát ngôn (b) có đồng ý hay không đồng ý loại thuốc đó là thuốc cao. Câu hỏi này được đưa ra nhân dịp trong làng có mở hội do những người làm trò quỷ thuật biểu diễn. Cuộc vui này thực chất chỉ là một cái cớ để hai thầy lang chê bai, vạch trần những điểm dốt nát của nhau trong việc chữa bệnh cho dân làng. Do đó đáp lại câu hỏi, người trả lời phản bác ý kiến cho đó là thuốc cao và nội dung này chính là tiêu điểm mà người nói muốn đưa ra. Nhưng nếu đặt cặp thoại trên vào tình huống khác thì nội dung thông tin hồi đáp của người trả lời lại có sự thay đổi. Ví như phát ngôn của người trả lời được đặt trong hoàn cảnh là mối quan hệ của hai người là tốt đẹp và thực sự là nhân vật trong phát ngôn (b) khâm phục tài năng thực sự của nhân vật trong phát ngôn (a) thì vẫn là lời nhận xét, vẫn là hành động xác tín nhưng nó ngầm ẩn ý nghĩa khẳng định. Và ý nghĩa khẳng định tài năng của nhân vật trong (a) là phần mang giá trị thông tin mà người hỏi chờ đợi từ phía người trả lời. Có thể biểu thị cấu trúc thông tin của phát ngôn như sau:

Tình huống giao tiếp 1:



Thôi, tôi chịu ông rồi mà!

Ở vùng này chỉ có một ông biết nghề

thuốc!

Cấu trúc

thông tin

tiêu điểm

(phản bác)

cơ sở

(đã nằm trong nhận thức của người nghe)

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 136 trang tài liệu này.

Bước đầu khảo sát hiện tượng tiêu điểm hóa cấu trúc chủ - vị của câu Tiếng Việt - 5

Tình huống giao tiếp 2:



Thôi, tôi chịu ông rồi mà!Ở vùng này chỉ có một ông biết nghề

thuốc!

Cấu trúc

thông tin

tiêu điểm (khẳng định- đó là thuốc cao) và nêu lí do khẳng định

Như vậy, có thể dựa vào cấu trúc thông tin của câu hỏi để xác định tin mới trong câu trả lời cũng như toàn bộ kết cấu của câu trả lời. Cấu trúc thông tin của câu hỏi và câu trả lời có quan hệ mật thiết với nhau bởi mỗi loại câu hỏi có một đặc trưng riêng và chính những đặc trưng đó lại quy định cấu trúc cho câu trả lời. Hỏi - trả lời không chỉ là tiền đề tồn tại của nhau, là hai mặt của một quá trình thống nhất về mặt chức năng ở chỗ giải quyết mâu thuẫn giữa biết và chưa biết mà chúng còn thống nhất, biện chứng với nhau giữa tin đã biết, tin cần biết và tiêu điểm thông tin.

2.1.2. Tiền giả định

Trong lĩnh vực ngữ nghĩa và ngữ dụng, mọi người đã nói nhiều tới thuật ngữ "tiền giả định" (presupposition) và có nhiều cách hiểu, cách tiếp cận khác nhau xung quanh nó. Mỗi phát ngôn dù ngắn gọn hay đầy đủ, trực tiếp hay gián tiếp cũng đều mang một ý nghĩa và đáp ứng nhu cầu thông tin nhất định. Để đảm bảo cho phát ngôn có giá trị trong hoàn cảnh sử dụng cụ thể đó, nó phải có trong nhận thức của cả người nói và người nghe, nói cách khác là thông tin đó được người nói và người nghe đã biết hoặc giả định biết.

Tác giả Đỗ Hữu Châu quan niệm: "Tiền giả định là những hiểu biết được xem là bất tất phải bàn cãi, bất tất phải đặt lại thành vấn đề, đã được các nhân vật giao tiếp mặc nhiên thừa nhận, dựa vào chúng mà người nói tạo nên ý nghĩa tường minh trong phát ngôn của mình" [4,366]. Còn GS. Hoàng Phê cho rằng: "những điều mà phải coi như đã biết rồi hoặc nếu chưa biết thì cũng phải thừa nhận là đúng như vậy thì câu hoặc lời nói mới thật sự có ý nghĩa được gọi là tiền giả định". [4,284]

Nói tóm lại, tiền giả định là thông tin không được diễn đạt một cách tường minh nhưng cả người nói và người nghe đều phải rút ra cách hiểu giống nhau, phải được chấp nhận trước là có giá trị chân thực để phát ngôn có thể giao tiếp bình thường. Ví dụ:

[2:6] Chị Đào vẫn giữ lời thề ngày nọ đấy chứ?

(NK: 42)

Câu đã dẫn có tiền giả định là:

- Có một nhân vật tên là Đào

- Nhân vật Đào đã có một lời thề nào đó‌

Câu đã dẫn sẽ có giá trị và được sử dụng bình thường nếu cả người nói và người nghe đều chấp nhận hai tiền giả định trên. Nếu một trong những tiền giả định là sai thì phát ngôn sẽ trở thành có vấn đề. Vì thế để phản bác lại, người nghe có thể dùng cách phủ định lại tiền giả định như: Tôi có thề gì đâu. Nhưng trong tác phẩm này, nhân vật Đào đáp lại: Thề gì nào? không phải phản bác lại tiền giả định mà để lảng tránh câu trả lời.

Về mặt chức năng, tiền giả định không có giá trị thông báo, có nghĩa là nó không mang lại cho người nghe thông tin mới, hay thông tin được người nói cho là quan trọng, cần chú ý. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là tiền giả định không có vai trò gì trong cấu trúc thông tin của phát ngôn. Với tư cách là phần thông tin chung được cả người nói và người nghe chia sẻ, dựa vào tiền giả định ta có thể xác lập tiêu điểm thông tin của câu.


2.1.3. Tỉnh lược

Trong cấu trúc thông báo của câu, tiêu điểm với tư cách là trọng tâm thông báo của câu, là bộ phận duy nhất không thể bị lược bỏ. Những thành phần nào trong câu đã bị lược bỏ thì phần còn lại giữ vai trò làm tiêu điểm thông tin. Ví dụ:

[2:7] a. Thế em là ai?

b. (Em là) Em gái chị ấy.


[2:8] a. Ông thi ra năm nào?

b. (Tôi thi) Năm hai mươi bốn.


[2:9] a. Bà đẻ con so hay con rạ?

b. Thưa bà, (bà đẻ) con so.

(VPT: 75)


(KH2: 19)


(NCH: 30)

Bên cạnh việc dựa vào ngữ cảnh, tiền giả định và khả năng lược bỏ, hiện tượng tiêu điểm hoá cấu trúc chủ - vị của câu tiếng Việt còn được xác định bằng các phương tiện biểu hiện như trọng âm, hư từ, trật tự từ, phương thức tỉnh lược. Dưới đây chúng tôi sẽ đề cập tới các phương thức này với tư cách là một tiêu chí quan trọng để xác định tiêu điểm của cấu trúc thông tin.

2.2. Các phương thức tiêu điểm hoá cấu trúc chủ - vị của câu tiếng Việt

2.2.1. Tiêu điểm hóa bằng trọng âm

Các phương tiện ngôn điệu như thanh điệu, trọng âm, ngữ điệu thường quan hệ với một đơn vị độc lập trong hệ thống ngôn ngữ (âm tiết, từ, ngữ đoạn hoặc câu). Trong các ngôn ngữ nói chung và tiếng Việt nói riêng, một trong những phương tiện phổ biến đánh dấu thành tố tiêu điểm hoá là trọng âm câu (sentence stress) [7,63]. Trọng âm là sự nêu bật một số đơn vị nào đó so với những đơn vị khác trong chuỗi lời nói [14,187]. Trọng âm câu nêu bật một từ trong câu. Thông thường đơn vị có trọng âm trong một ngôn ngữ vừa mạnh hơn, dài hơn và cao hơn (hoặc thấp hơn) đơn vị không có trọng âm. Cùng một phát ngôn với một cấu trúc cú pháp và ngữ nghĩa nhất định nhưng tuỳ thuộc vào những điểm nhấn (trọng âm) rơi vào những chỗ khác nhau mà tạo ra tiêu điểm thông tin khác nhau và vì vậy có các cấu trúc thông báo khác nhau. Ví dụ:

[2:10] a. Hương đan khăn cho bà.

(Trả lời câu hỏi ai đan khăn cho bà)

b. Hương đan khăn cho bà.

(Trả lời câu hỏi Hương làm gì)

c. Hương đan khăn cho bà.

(Trả lời câu hỏi Hương đan cái gì cho bà)

d. Hương đan khăn cho .

(Trả lời câu hỏi Hương đan khăn cho ai)

e. Hương đan khăn cho bà.

(Trả lời câu hỏi Có chuyện gì vậy)

Trong các biến thể cú pháp trên, tiêu điểm rơi vào thành tố cú pháp khác nhau (in chữ đậm), được đánh dấu bằng phương thức trọng âm giúp chúng ta nhận diện cấu trúc thông tin và giải thích sự khác biệt về hình thức bề mặt của các biến thể cú pháp của câu.

Các ngôn ngữ không chỉ khác nhau về kiểu trọng âm mà còn khác nhau về vị trí phân bố của nó. Đối với tiếng Việt, "xét theo vị trí phân bố của tiêu điểm được đánh dấu bằng trọng âm, có thể phân biệt các biến thể cú pháp có trọng âm tiêu điểm ở đầu câu với các biến thể cú pháp có trọng âm tiêu điểm ở cuối câu. Trọng âm được thể hiện trong hai loại biến thể này có sự khác nhau là do yếu tố

ngữ điệu chi phối. Khi sử dụng ngữ điệu, thành tố tiêu điểm ở vị trí cuối câu dễ được đánh dấu nổi bật về trọng âm hơn ở vị trí đầu câu" [7,64]. Ví dụ:

[2:11] a. Thày nào giáo dạy toán lớp ta?

b. Dạy toán lớp ta là thày nào? [2:12] a. Thày Minh dạy toán lớp ta.

b. Dạy toán lớp ta là thày Minh.

Tiếng Việt là một ngôn ngữ đa thanh nên việc sử dụng ngữ điệu để phân biệt câu theo mục đích nói là hạn chế. Tuy nhiên các nhà nghiên cứu vẫn nhận thấy sự khác biệt về ngữ điệu giữa các kiểu câu phân loại theo mục đích nói. Tác giả Nguyễn Thiện Giáp khẳng định một trong những chức năng quan trọng nhất của ngữ điệu là chức năng cú pháp, nhờ nó mà ta phân biệt câu trần thuật, câu nghi vấn, câu cảm thán [14,192]. Thông thường biến thể cú pháp xuất hiện trong câu trần thuật có một bộ phận lên giọng và một bộ phận xuống giọng. Còn biến thể cú pháp trong câu nghi vấn, khi không có các phương tiện nghi vấn thì ngữ điệu đặc thù cho loại câu này là một ngữ điệu cao và sắc dành cho trọng tâm hỏi trong câu và tuỳ thuộc vào vị trí của trọng tâm ấy, đồng thời ở cuối câu không có hiện tượng hạ thấp giọng một cách rõ rệt. Mặc dù chúng đều có khả năng tạo tiêu điểm nhưng mức độ nổi bật về trọng âm ở các biến thể cú pháp có sự khác nhau: Cùng ở vị trí cuối câu nhưng thông tin tiêu điểm trong câu trả lời nào mang ý nghĩa tương phản với thông tin của câu hỏi đặt ra thì được đánh dấu nổi trội về mặt trọng âm hơn so với những tiêu điểm không mang tính tương phản [7,64]. Ví dụ:

[2:13] a. Bác làm nghề ?

b. Tôi làm giáo viên.

c. Bác là kỹ sư à?

d. Không, tôi là giáo viên.


2.2.2. Tiêu điểm hóa bằng tỉnh lược cơ sở thông tin

Trong quá trình giao tiếp, để có thể tiết kiệm, cụ thể là giảm thiểu độ dài thông báo và chuyển tải thông tin, người ta đã dùng biện pháp rút gọn. Một số nhà nghiên cứu đã gọi tên cho việc rút gọn ngôn ngữ này như sau: 1. rút gọn (từ, ngữ) (contraction); 2. viết tắt (abbreviation); 3. thay bằng đại từ (pronouns) và 4. tỉnh lược (ellipsis) [30,145]. Theo tác giả Phạm Văn Tình, 4 phương thức thực chất có

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 20/05/2022