Sự Phân Bố Của Các Từ Phủ Định Trong Tiếng Việt Hiện Đại

nhà ngôn ngữ học Nguyễn Đức Dân [4].

2.3.2.1 Cách nghiên cứu về ngữ pháp

Câu phủ định toàn bộ với câu phủ định bộ phận là phạm trù phủ định trong ngôn ngữ. Theo địng nghĩa và phân loại câu phủ định của nhà ngôn ngữ Nguyễn Đức Dân, câu phủ định toàn bộ và câu phủ định bộ phận được quan niệm như sau:

2.3.2.1.1 Câu phủ định toàn bộ

Câu phủ định toàn bộ là câu chứa phụ từ chỉ ý phủ định đứng trước vị tố hoặc trước cấu trúc chủ ngữ - vị tố của câu.

Ở đây có hai cách bày tỏ sự phủ định toàn bộ, cách thứ nhất:


Từ phủ định

+ vị ngữ của câu đơn hai phần

+ nòng cốt của câu đơn một phần

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 105 trang tài liệu này.

Câu phủ định tiếng Hán trong sự đối chiếu với tiếng Việt - 8

Ví dụ:

(117)Không đợi đến hai tiếng, chị Gái hớn hở chạy về... [74] (118)Nó chỉ hụ hị nhìn mẹ mà không nói... [74]

Cách thứ hai là :

- Không/ chẳng/ chả + thể từ + nào/ gì

- Không/ chẳng/ chả + đại từ phiếm chỉ

Ví dụ:

(119)Trẻ con đứa nào chả thích ở nhà với bố, với mẹ để chẳng người nào động đến thân? [73]

(120)Dần đi lấy chồng, không ai trông coi vườn đất, nhà cửa, con cái cho ông nữa... [73]

2.3.2.1.2 Câu phủ định bộ phận

Câu phủ định bộ phận là trong câu vị tố không bị đánh dấu phủ định, mà một bộ phận nào đó khác trong câu mang phụ từ phủ định.

Với phủ định bộ phận, chúng ta có thể dùng từ phủ định ở phụ ngữ của câu hay ở phụ ngữ của các cụm từ trong câu biểu thị, và những phụ ngữ này có thể mang nghĩa phủ định kết quả, trạng thái hay phủ định sự tồn tại của sự vật sở thuộc v.v. Ví dụ:

(121)Hai thân Điền bán cả ruộng, vườn đi để cho Điền đi học chẳng phí đâu. [75]

(122)Nhưng chẳng cái nào còn giữ trọn vẹn được cái mầu của nó.

[76]

2.3.2.2 Cách nghiên cứu về lô-gích

Phủ định về lô-gích gồm sự phủ định chung và sự phủ định riêng, theo nhà ngôn ngữ Nguyễn Đức Dân [4] thì câu phủ định chung và câu phủ định riêng có thể được quan niệm như sau:

Câu phủ định chung: “câu phủ định miêu tả sự kiện mọi phần tử của một tập hợp không có một thuộc tính nào đó được gọi là câu phủ định chung.”

Câu phủ định riêng: “Câu phủ định miêu tả một hoặc một số phần tử của một tập hợp không có một thuộc tính nào đó được gọi là câu phủ định riêng.”

Nguyễn Đức Dân đã đưa ra ví dụ minh hoạ về sự khu biệt và mối liên hệ của hai hướng nghiên cứu phủ định về ngôn ngữ và về lô-gích, trong bảng đối chiếu sau:


Tầm phủ định

Phủ định chung

Phủ định riêng

Phủ định toàn bộ

Mọi người/ Ai cũng

không biết việc đó.

Một số/ Có người

không biết việc đó.

Phủ định bộ phận

Mọi người/ Ai cũng

nói không rõ.

Một số người nói

không rõ.

Ví dụ trong bảng này, phủ định chung với phủ định riêng về mặt phủ định toàn bộ có cấu trúc đối lập giữa “mọi người/ ai cũng - một số/ có người”, và phủ định toàn bộ với phủ định bộ phận về mặt phủ định chung có cấu trúc đối lập giữa “không biết việc đó - nói không rõ”.

2.3.3 Sự phân bố của các từ phủ định trong tiếng Việt hiện đại

Từ phủ định và cách bày tỏ ý phủ định trong tiếng Việt có nhiều kiểu, tùy theo tỷ lệ sử dụng của từ ngữ, từ phủ định cũng được chia thành hai loại: thường sử dùng và ít khi sử dụng. Những từ và cấu trúc thường dùng có tỷ lệ xuất hiện cao ở trong khẩu ngữ, bài báo và tất cả tác phẩm văn học; còn những từ phủ định ít khi sử dụng, là những từ, cụm từ hay cấu trúc mang sắc thái bác bỏ rõ rệt hoặc chúng được sử dụng trong cấu trúc nghi vấn, ngoài ra còn có một số từ ngữ thô tục dùng trong khẩu ngữ mà ít khi sử dụng trong văn học, chúng tôi cũng xếp những từ phủ định này vào loại không thường dùng.

2.3.3.1 Những từ phủ định chủ yếu trong tiếng Việt

Nguyễn Kim Thản trong bài viết “Vài nhận xét về cách bầy tỏ ý phủ định trong tiếng Việt” đăng ở tạp chí Ngôn Ngữ số 2 năm 1972, có nêu ra khái niệm “từ kèm phủ định”. Ông cho rằng, xét theo loại câu (phân chia theo mục đích nói) trong đó xuất hiện những từ kèm phủ định. Và với những từ kèm phủ định

này có thể chia thành hai nhóm: từ kèm phủ định xuất hiện trong câu kể và từ kèm phủ định xuất hiện trong câu cầu khiến.

Từ phủ định cũng được gọi là yếu tố phủ định hay từ kèm phủ định (theo Nguyễn Kim Thản). Trong tiếng Việt, ý phủ định được diễn đạt bằng các từ kèm phủ định khác nhau, và chúng mang những sắc thái khá tinh tế và được đặt ở các vị trí khác nhau trong câu.

Vì vậy, Nguyễn Kim Thản [17] cũng đã đưa ra một bảng nhận xét về sự xuất hiện của những từ kèm phủ định sau:

Từ kèm phủ định xuất hiện trong câu kể

Từ kèm phủ định xuất hiện

trong câu cầu khiến:

Không, chẳng (chả), chưa (chửa), không

hề, chẳng hề, chưa hề, chưa từng v.v

Đừng, chớ v.v

Ở đây cần lưu ý là, trong các từ kèm phủ định, từ “không” là một từ đặc biệt và nó còn được dùng trong câu mệnh lệnh với giọng điệu và sự rút gọn cả câu của người phát ngôn. Ví dụ:

(123)Không được vứt rác! [17] (124)Không cho phép nói bậy! [17]

Ngoài ra,ở trong tiếng Việt còn có một số từ kèm phủ định khác mang nghĩa bác bỏ hay phủ nhận, và chúng cũng đã được tạo thành một khuôn phủ định cố định hoá dùng trong giao tiếp hàng ngày.

2.3.3.1.1 Sự phân bố của từ “không”

Hầu hết các nhà ngôn ngữ học Việt Nam đều cho rằng từ “không” là một từ tiêu biểu nhất cho cấu trúc phủ định, và từ này cũng là một từ thường xuất hiện nhất trong khi chúng ta sử dụng dạng thức phủ định.

A. Tần số sử dụng của từ phủ định “không”

Theo sự thống kê của chúng tôi trong một số tiểu thuyết và truyện ngắn của nhà văn Anh Đức và Nam Cao, từ “không” với ý phủ định được xuất hiện nhiều nhất so với các từ phủ định khác. Dưới đây là bảng thống kê tần số sử dụng các từ phủ định chủ yếu (không, chưa, chẳng, chả) của 10 trong 30 truyện ngắn được thống kê:


STT

Tên truyện (Tác giả)

Số lần xuất hiện từ phủ định mang

nghĩa phủ định

Không

Chưa

Chẳng

Chả

1

Hòn đất

(Anh Đức)

1402

1198

(85,4%)

139

(9,9%)

62

(4,4%)

3

(0,2%)

2

Con cá song

(Anh Đức)

87

62

(71,3%)

10

(11,5%)

13

(14,9%)

2

(2,3%)

3

Con chị Lộc

(Anh Đức)

47

35

(74,5%)

5

(10,6%)

7

(14,9%)

0

4

Cứu thuyền

(Anh Đức)

35

28

(80%)

6

(17,1%)

1

(2,9%)

0

5

Đất

(Anh Đức)

65

52

(80%)

6

(9,2%)

7

(10,8%)

0

6

Chí Phèo

(Nam Cao)

240

186

(77,5%)

25

(10,4%)

20

(8,3%)

9

(3,8%)

7

Điếu văn

(Nam Cao)

62

45

(72,3%)

1

(1,6%)

13

(21,0%)

3

(4,8%)

8

Đôi mắt

(Nam Cao)

97

59

(60,8%)

12

(12,4%)

26

(26,8%)

0

9

Lão Hạc

(Nam Cao)

66

47

(71,2%)

6

(9,1%)

10

(15,2%)

3

(4,5%)

10

Nghèo

(Nam Cao)

23

19

(82,6%)

3

(11,5%)

0

1

(3,8%)

Ngoài ra, chúng tôi còn thống kê thêm 20 truyện ngắn của hai nhà văn:

Anh Đức (Chuyến tàu đêm, Chuyến lưới máu, Cái bàn còn bỏ trống, Bức tranh để lại, Chuyến xe về làng, Một chuyện chép, Đêm cuối năm trên một Hải Đăng đảo, Dòng sông trước mặt, Đứa con, Giấc mơ giữa buổi bình yên, Giấc mơ ông lão vườn chim, Khói, Ký ức tuổi thơ) và Nam Cao (Bài học quét nhà, Cái chết của con mực, Đời thừa, Một chuyện xuvơnia, Một đám cưới, Trăng sáng, Từ ngày mẹ chết). Trong đó chúng tôi thấy rằng, từ phủ định “không” trong tất cả tác phẩm trên nêu chiếm tỷ lệ cao nhất về sự xuất hiện, từ đó chúng ta cũng có thể thấy rằng, từ phủ định “không” là từ cơ bản nhất và thường gặp nhất trong tiếng Việt, và cũng có thể nói là “không” là từ tiêu biểu cho cấu trúc phủ định của tiếng Việt.

B. Vị trí và tầm tác động của từ phủ định “không”

Theo Diệp Quang Ban trong “Ngữ pháp tiếng Việt phần câu” [2] thì ông nhận xét mối quan hệ giữa vị tri của từ phủ định với tầm tác động của nó đối với một câu phủ định: tầm tác động của yếu tố phủ định lệ thuộc nhiều vào vị trí của yếu tố phủ định trong câu, và nhất là lệ thuộc vào tình huống sử dụng ngôn ngữ. Từ đó chúng ta có thể suy ra một quan điểm là: vị trí của từ phủ định sẽ quyết định tầm tác động và nghĩa của câu phủ định, thậm chí còn có thể vì thay đổi vị trí của từ phủ định mà thay đổi cả nghĩa của câu.

B.1 “Không” làm thành câu không có chủ ngữ

Từ phủ định “không” có thể đứng riêng một mình làm thành câu không có chủ ngữ ở trong tình huống có ý kiến phủ định về mặt bác bỏ. Ví dụ:

(125) Họ nói câu cuối với một vẻ gì mỉa mai. Tôi buồn rầu, hỏi:

- Thế từ ngày lấy nhau đến giờ, chị vợ có chịu... làm ăn đứng đắn hơn không?

- Làm? Làm gì? Nó thì chẳng bao giờ làm cả.

- Không!... Tôi nói... Nghĩa là... chị ta có tu tỉnh lại, về cái đường kia khác, hay là vẫn chứng nào tật ấy? [68]

(126) Hắn lại càng khóc to hơn và cố nói qua tiếng khóc:

- Anh... anh... chỉ là... một thằng... khốn nạn!...

- Không!... Anh chỉ là một người khổ sở!... Chính vì em mà anh khổ... [70]

B.2 “Không” trong câu tác động lên phần còn lại của câu

“Không” với tư cách là một yếu tố phủ định có tầm tác động lên phần còn lại của câu xét theo nội dung câu và biệt tố tình thái về cú pháp, khi từ “không” đứng trước hoặc đứng sau phần còn lại của câu đều có thể tác động tới toàn

câu.

B.2.1 “Không” đứng trước phần còn lại của câu

Từ phủ định“không”khi đứng trước phần còn lại của câu rất dễ nhầm lẫn với “không” phủ định chủ ngữ, và khi phân biệt hai kiểu phủ định nghĩa này, chúng ta thường xét theo nội dung của câu, tức ở phần sau phủ định còn phải có thêm một tình huống nào đó giải thích vì sao phủ định phần trước như, đồng thời “không” thường kết hợp với từ “phải” mang nghĩa bác bỏ. Ví dụ:

(127)Trên cổ nó còn có một xâu chuỗi, không phảichuỗi hạt trai, mà làchanh trái xỏ qua một sợi kẽm. [79]


Có thể phân tích cấu trúc cú pháp (CT CP) và cấu trúc nghĩa biểu hiện (CT NBH) như sau:



Không phải

chuỗi hạt trai

CT CP

Phủ định tố

Chủ ngữ

CT NBH

Tính phủ định

Động thể


B.2.2 “Không” đứng sau phần còn lại của câu

Ngoài đứng trước phần còn lại của câu, yếu tố phủ định “không” còn có thể đứng sau phần còn lại và nó được tách ra thành một bộ phận riêng mang tính bác bỏ rõ rệt. Ví dụ:

(128)Người cha khốn nạn nhìn đứa con chòng chọc, thở dài. Một giọt lệ từ từ lăn xuống chiếu.

- Thầy bảo gì con ạ?

- Lúc nãy mẹ con mày ăn cám phải không? Gái gượng cười cãi:

- Ăn chè đấy chứ. Bố nó chép miệng:

- Khốn nạn, chè đâu mà ăn, cơm còn không có nữa là chè! Rõ mày khổ từ trong bụng mẹ... [74]

B.3 “Không” trong câu tác động lên chủ ngữ của câu

Yếu tố phủ định “không” tác động lên chủ ngữ của câu thường kèm theo “phải” ở đằng sau từ phủ định “không” và có lúc ở phần cuối câu còn có thêm “đâu”. Thông thường có hai dạng từ “không” tác động lên chủ ngữ:

B.3.1 “không phải + danh từ (cụm danh từ) không phiếm định” Ví dụ:


Không

phải

ý chúng

cháu

suy nghĩ bi quan

chết chóc gì

đâu

CT

CP

Phủ

định tố

Chủ ngữ

Vị tố

Tân ngữ

Phủ

định tố

CT

NBH


Động thể

Tinh thân

Đích thể


Tính phủ định

(129)Không phải ý chúng cháu suy nghĩ bi quan chết chóc gì đâu. Cấu trúc cú pháp và cấu trúc nghĩa biểu hiện của câu trên như sau:


[78]


B.3.2 “không +danh từ (cụm danh từ) chứa yếu tố phiếm định” Ví dụ:

(130)Trên bãi này không ai bắt được đâu. [79] Cấu trúc cú pháp và cấu trúc nghĩa biểu hiện của câu trên là:


Trên

bãi ...

không

ai

bắt

được

đâu

CT CP

Đề ngữ

Phủ định tố

Chủ

ngữ

Vị tố

Phủ định tố

CT

NBH

Đề tài

Tính phủ

định

Động

thể

Động

Tính phủ

định

B.4 “Không” trong câu tác động lên vị tố của câu

Yếu tố phủ định “không” tác động lên vị tố của câu thường đứng trước vị tố, tức động từ hay tính từ, và nó ít khi đứng sau chúng. Ví dụ:

(131)Vọi suy nghĩ hồi lâu rồi nói: - Tôi không biết! (vị tố: động từ) [79] Cấu trúc cú pháp và cấu trúc nghĩa biểu hiện của câu:


Tôi

không

biết

CT CP

Chủ ngữ

Phủ định tố

Vị tố

CT NBH

Đương thể

Tính phủ định

Tinh thần

(132)Nó rị một cái, chiếc xe không nhúc nhích. (vị tố: động từ) [79] Cấu trúc cú pháp và cấu trúc nghĩa biểu hiện của câu:


... chiếc xe

không

nhúc nhích

CT CP

Chủ ngữ

Phủ định tố

Vị tố

CT NBH

Đương thể

Tính phủ định

Động

B.5 “không trong câu tác động lên bổ ngữ của câu

Yếu tố phủ định “không” ở trong tiếng Việt có hai cách tác động lên bổ ngữ của câu: “không” đứng trước từ làm vị tố; “không + phải” đứng trước chủ ngữ của câu.

B.5.1 Yếu tố phủ định “không” đứng trước từ làm vị tố

Trong trường hợp này từ “không” thường có cấu trúc “ Chủ ngữ + không

+ vị tố + bổ ngữ”, ví dụ:

(133)Tôi không gặp nhiều anh chị ở đó. [78] (134)Anh không giống một cán bộ đi công tác. [80]

B.5.2 Yếu tố phủ định “không + phải” đứng trước chủ ngữ của câu Trường hợp này thường được dùng trong sự phủ định bác bỏ, ví dụ: (135)Không phải chỉ có chúng tôi biết việc đó. [80]

B.6 “Không” trong câu tác động lên gia ngữ của câu

Gia ngữ câu có một cách gọi cũ là “trạng ngữ của câu”, yếu tố phủ định “không” tác động lên gia ngữ của câu có cấu trúc sau: “không + gia ngữ + vị tố”. Ví dụ:

(136)Từ đó tới nay, chính tôi không bao giờ quên lời hứa với người anh đã khuất... [80]

B.7 “Không” trong câu tác động lên gia ngữ của từ trong câu

Yếu tố phủ định “không” có thể tác động lên gia ngữ của từ trong câu, thể hiện ở chỗ từ phủ định “không” đi liền với gia ngữ của từ và trực tiếp tác động lên từ này, Ví dụ:

(137)Tôi không thường về nhà máy nên không . [81]

B.8 “Không” ở trong câu không có chủ ngữ

Hiện tượng phủ định câu không có chủ ngữ có thể chia thành hai loại là: phủ định câu danh từ và phủ định câu động từ hay tính từ.

B.8.1 Yếu tố phủ định “không” phủ định danh từ

Câu phủ định kiểu này giống như cách phủ định danh từ làm chủ ngữ, ví

dụ:

(138)Không phải thư của bác Hòa. [65]

B.8.2 Yếu tố phủ định “không” phủ định động từ hay tính từ

Câu phủ định kiểu này giống như cách phủ định vị tố động từ và tính từ, ví

dụ:

(139)Không biết tôi điên hay sao ấy. [65]

C. Phạm vi sử dụng của từ phủ định “không”

Ngoài trường hợp dùng làm dấu hiệu phủ định trạng thái, đặc điểm ra, theo Nguyễn Kim Thản trong bài viết “Vài nhận xét về cách bày tỏ ý phủ định trong tiếng Việt” [17], thì yếu tố phủ định (từ kèm phủ định) này có bốn phạm vi sử dụng như sau:

Xem tất cả 105 trang.

Ngày đăng: 25/02/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí