Cấm kỵ và đối phó với cấm kỵ nhìn từ góc độ văn hoá khảo sát qua thơ Nôm truyền tụng của Hồ Xuân Hương - 9

anh “lột quần”, “tra ngay vào” khiến cho câu đố ám chỉ quan hệ tính giao. Lối nói lái cũng như là một trong những hình thức đối phó với cấm dục của văn học dân gian. Hình thức chơi chữ nói lái xuất hiện nhiều trong các giai thoại về Trạng Quỳnh. Lỡm quan thị là một ví dụ sinh động. Nhân dịp quan thị làm lễ mừng thọ đến xin chữ, Trạng Quỳnh tặng hai chữ “Thiện Đức”. Mới đọc qua thì ai cũng khen chữ ấy vừa thâm thuý, vừa có hậu. Chủ nhân mừng lắm cho phóng thành đại tự, khảm vào bức hoành phi sơn son thếp vàng treo ngay giữa trung đường tại toà nhà mới xây. Sau một thời gian, quan thị đi đến đâu cũng bị người ta gọi là quan “đực thiến”. Hắn mắng chửi, liền được nghe giải thích: tên mỹ tự “Thiện Đức” nói lái là “đực thiến” do ông treo giữa nhà nên chúng tôi gọi như vậy. Lúc đó, quan “ông” mới biết mình bị trạng Quỳnh chơi khăm đau hơn hoạn, vội về nhà tháo bức hoành phi đem giấu.

Không phải là chỉ trong xã hội Nho giáo Việt Nam thời trung đại mới có sự cấm đoán tính dục bản năng. Hoàng Ngọc Tuấn cho biết, ở nước Anh dưới sự trị vì của Nữ hoàng Victoria, được mệnh danh là thời đại thanh giáo (puritanism), nhưng vẫn có thơ tả quan hệ tính dục nam nữ trong sáng tác của nhà thơ William Butler Yeats (1865 - 1939). Nhà thơ này đã tả một cảnh làm tình nhưng ngụy trang cuộc làm tình đó dưới danh nghĩa là kể lại một câu chuyện trong thần thoại cổ Hy Lạp. Đó là bài thơ “Leda và con Thiên nga

Một cú chụp bất thình lình: đôi cánh lớn còn đập

trên người nữ loạng choạng, hai đùi nàng được mơn trớn

bởi những mạng lưới tối ám, và gáy nàng bị mỏ chàng kẹp chặt, chàng gì đôi vú vô vọng của nàng vào ngực chàng.

Làm sao những ngón tay hoảng hốt rối loạn của nàng có thể xô thân thể phủ lông rạng rỡ ấy ra khỏi hai đùi nàng rời rã?

Và làm sao thân thể nàng, bị kềm giữ trong màu trắng vồ vập ấy, không khỏi cảm thấy trong trái tim của kẻ lạ đang vỗ đập?

Một cái rùng mình nơi hạ thể làm bức tường đổ sụp, mái vòm và tháp cao bốc lửa

và Agamenmon gục chết. Bị ghì giữ như thế,

bị ngự trị bởi dòng máu thú tính ngập ngụa,

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 171 trang tài liệu này.

liệu nàng đã cảm nhận được ý tưởng và sức mạnh của chàng trước khi chiếc mỏ lạnh lùng ấy buông tha cho nàng?

Bài thơ trên miêu tả thần Zeus biến thành con thiên nga để giăng bẫy, cưỡng đoạt nữ thuỷ thần Leda. Và chính cuộc giao hợp này sinh ra Helen và Clytêmnestra. Hai đứa con của Lena sau này đã gây nên sự sụp đổ của thành Troy và cái chết của Agamenom. Theo Hoàng Ngọc Tuấn, nếu Yeats tả cảnh hiếp dâm nhưng lại không đề cập đến thần thoại Hy Lạp và thay con thiên nga bằng một con vật khác, thì e rằng, bài thơ ông sáng tác khó lòng tồn tại trong bối cảnh văn hóa thanh giáo thời đại này, sẽ bị lên án bởi quan niệm đạo đức chính thống. Nhưng tác giả đã tìm được một cách đối phó khi gán cho cảnh làm tình này một nguồn gốc từ chuyện làm tình của thần Zeus. Như vậy, nghệ thuật đối phó với các cấm đoán dựa trên nguyên lý A là A nhưng thực chất là B.

Cấm kỵ và đối phó với cấm kỵ nhìn từ góc độ văn hoá khảo sát qua thơ Nôm truyền tụng của Hồ Xuân Hương - 9

Hoàng Ngọc Tuấn còn cho rằng, việc ngụy trang tương tự cho tác phẩm khi muốn nói đến tính dục là vấn đề cấm kỵ phổ biến không chỉ trong văn học mà trong cả hội họa ở nước Anh đương thời. Các hoạ sĩ thời Victoria mượn đề tài, nhân vật thần thoại Hy Lạp và trong Kinh thánh mặc sức tung hoành vẽ tranh khoả thân. Theo Hoàng Ngọc Tuấn, các bức tranh khỏa thân đó được vẽ không có lông ở bộ phận sinh dục, đúng như lý tưởng về cái đẹp của thời cổ đại, đó là căn cứ để các họa sĩ biện hộ cho nguồn gốc thần thoại của các bức tranh. Đây thực ra là cách đối phó với sự nghiêm ngặt của thời Victoria. Đứng trước các tác phẩm này, “công chúng an tâm thưởng lãm vừa nghệ thuật, vừa những chuyện ngồn ngộn dục tính, vì đã có những lý do rất mạnh để biện minh cho sự thưởng lãm của mình: chúng tôi đang đứng, đang chứng kiến những chuyện xảy ra ở một nơi khác, và những chuyện này đã từng được chiêm nghiệm và giảng giải dưới góc độ đạo đức một cách ráo riết” [124, 290]. Xã hội Việt Nam thời trung đại cũng giống như một số xã hội khác ở Phương Tây cho rằng bộ phận

sinh dục và hoạt động tình dục là nhơ nhớp, bẩn thỉu…Do đó, trong tác phẩm văn chương loại từ ngữ này hầu như là vắng bóng. Để tránh bị xã hội phản đối, những nhà văn Anh thời Victoria tránh dùng các chữ “penis”, “vulva”, “fuck”,...; thay vào đó họ dùng , còn những nhà văn nước ta dùng từ Hán Việt để thay cho từ thuần Việt, vì độc giả Việt Nam có cảm nhận chữ thuần Việt là tục tĩu.

Như vậy, kể cả ở nước Anh, cũng có cấm kỵ về bản năng tính dục và cũng có sự đối phó với cấm kỵ loại này. Tùy theo truyền thống văn hóa, tùy theo thể loại mà sự đối phó với cấm kỵ đó có thể khác nhau. Từ nguyên lý này, chúng ta xem xét đối phó với cấm kỵ trong thơ Nôm truyền tụng Hồ Xuân Hương.

Tựu chung lại, mỗi loại hình nghệ thuật, mỗi thời đại có cách biểu thị khác nhau về vấn đề đối phó với cấm kỵ nhưng đều có một nguyên tắc chung: Làm thế nào để nói về tính dục nhưng không ai có thể bắt bẻ được. Hoàng Ngọc Tuấn cho rằng: “Một tác phẩm đụng chạm đến dục tính và đạo đức mà bị xã hội kết án ngay và vứt ngay là một tác phẩm kém cỏi, vì nó chưa phải là nghệ thuật mà chỉ là một sự thô lỗ, lố bịch. Một tác phẩm đụng chạm đến dục tính mà được đón nhận ngay và bị quên lãng ngay cũng là một tác phẩm kém cỏi, vì nó chứa đầy bản kẽm và công thức. Chỉ có tác phẩm khiến con người băn khoăn và tranh luận mãi mới là tác phẩm xuất sắc, vì nó tạo điều kiện cho con người tư duy sâu xa hơn về cuộc sống và nghệ thuật.” [124, 321]. Tác phẩm của Hồ Xuân Hương đúng vào trường hợp thứ ba. Trải qua bao thế kỷ, độc giả và giới nghiên cứu vẫn chưa ngớt bàn cãi về những bài thơ hai nghĩa, trong đó có nghĩa ngầm nói về vấn đề tính dục của nữ sĩ tài hoa họ Hồ.

CHƯƠNG HAI

Cấm kỵ bản năng và đối phó với cấm kỵ bản năng nhìn từ góc độ văn hoá, (khảo sát qua thơ Nôm truyền tụng của Hồ Xuân Hương

Vấn đề về sự tồn tại của cái bản năng trong các bài thơ đề vịnh của Hồ Xuân Hương là một thực tế. Các nhà nghiên cứu cũng như bạn đọc đều có thể cảm nhận được nội dung này hàm chứa trong thơ của nữ sĩ. Nhưng việc định danh, lý giải hiện tượng lại là một vấn đề phức tạp.

Sự phức tạp thể hiện trước hết trong cách định danh. Kiểu định danh phổ biến nhất là việc gọi những bài thơ này là tục dâm (Nguyễn Hữu Tiến, Trần Thanh Mại, Nguyễn Lộc…). Nguyễn Văn Hanh theo quan điểm của Freud không gọi là dâm tục mà dùng chữ “dục tính”. Trên thực tế, khi dùng khái niệm tục dâm, các nhà nghiên cứu vô tình hay hữu ý đã đứng trên lập trường đạo đức thanh giáo của Nho giáo để nhìn vấn đề (Tản Đà, Vũ Đức Phúc, Trần Thanh Mại, Nguyễn Lộc…). Các nhà nghiên cứu dùng chữ dâm tục có hướng cắt nghĩa hiện tượng này bằng quan điểm đấu tranh giai cấp, cho rằng chúng được sử dụng như vũ khí đấu tranh, hạ bệ, đả kích, lột mặt nạ bọn hiền nhân, quân tử phong kiến, sư sãi giả đạo đức. Có người như Ngô Gia Võ phân biệt hai khái niệm tục và dâm, cho rằng chỉ có tục chứ không có dâm trong thơ Hồ Xuân Hương. Nhiều nhà nghiên cứu và thi sĩ hiện đại cũng tránh dùng chữ dâm tục mà dùng các từ ngữ khác. Xuân Diệu còn thách đố chỉ ra chất dâm tục ở thơ Nôm Xuân Hương. Đáng chú ý là Nguyễn Đức Bính đọc thơ Xuân Hương theo tinh thần nhân bản, khẳng định tình yêu tự do ở các bài thơ này chứ không có cái dâm tục. Chế Lan Viên dùng chữ “sắc dục”. Đỗ Đức Hiểu đọc các bài thơ này theo quan điểm thi pháp học, chứng minh chúng tạo nên một thế giới nghệ thuật sống động, yêu đời chứ không hề có dâm tục hay tinh thần phản phong, việc đánh, tát vào mặt bọn phong kiến. Đỗ Lai Thúy cũng không cho là có chuyện dâm tục mà chỉ coi hiện tượng tồn tại cái bản năng ở thơ Nôm Hồ Xuân Hương là “hoài niệm phồn thực”, một hiện tượng văn hóa.

Mỗi điểm nhìn thơ Nôm Hồ Xuân Hương đều có cơ sở riêng, có sự hợp lý riêng. Nhưng liệu chừng ấy điểm nhìn, chừng ấy cách lý giải đã cho phép thấy hết sự độc đáo và đóng góp của hiện tượng thơ Hồ Xuân Hương chưa? Chúng tôi nghĩ là chưa. Chính luận văn này cố gắng tìm thêm cách nhìn để cho thấy sự phong phú của các cách tiếp cận hiện tượng thơ độc đáo này. Đó là cách tiếp cận văn hóa, đặt thơ Nôm vịnh cảnh, vịnh vật trong tương quan với thực tế cấm kỵ bản năng tính dục của văn hóa Việt Nam trung đại, xem chúng như là các biểu hiện cụ thể của cách thức đối phó với cấm kỵ đó. Quan điểm của chúng tôi có phần gần với N. Niculin, nhà nghiên cứu người Nga tiếp cận thơ Hồ Xuân Hương theo nguyên lý lễ hội hóa trang. Nhưng chúng tôi cố gắng nhấn mạnh khía cạnh ngữ văn học, nhấn mạnh biện pháp đối phó với cấm kỵ bản năng tính dục của văn bản văn học, với hình tượng và ngôn ngữ, cố gắng đặt vào truyền thống đối phó với cấm kỵ của văn hóa, văn học dân gian.

Bất cứ nền văn học của một nước nào cũng bao gồm hai dòng văn học đó là văn học dân gian và văn học viết. Mỗi dòng văn học mang những nét riêng, song chúng đều bổ sung, ảnh hưởng lẫn nhau, tạo cho nền văn học nước ấy đậm đà bản sắc dân tộc. Hồ Xuân Hương chịu ảnh hưởng rất lớn từ nền văn học dân gian. Nữ sĩ làm sống dậy cả một truyền thống văn hóa đối phó với cấm kỵ bản năng. Dòng văn học chính thống cũng có vài người đôi khi dùng những hình ảnh xa xôi nói về đời sống bản năng (Ngã Ba Hạc phú của Nguyễn Bá Lân) nhưng chưa một tác giả chính thức nào công khai và lên tiếng nói mạnh mẽ, thành một hệ thống như Hồ Xuân Hương đối phó với cấm kỵ bản năng. Phật giáo, Nho giáo đến với văn học thành văn của người Việt ngay từ buổi đầu hình thành qua mấy thế kỷ đã luyện cho văn học này những phương thức, chất liệu, mĩ cảm, ngôn từ đậm màu khắc dục. Họ chỉ hướng đến vẻ đẹp siêu thoát, thanh cao mà quên đi những rung cảm đời thường nhất. Trước Hồ Xuân Hương, văn học thành văn của nền văn học Việt Nam vẫn thiên về vẻ đẹp thanh tâm quả dục. Chỉ đến thời kì văn học giai đoạn nửa cuối thế kỷ XVIII - nửa đầu thế kỷ XIX khi ra đời trào lưu nhân đạo chủ nghĩa nhằm giải phóng tình cảm con người, những ràng

buộc của xã hội phong kiến, khẳng định cuộc sống trần tục, niềm vui trần tục thì một số tác giả cùng thời với nữ sĩ mới chỉ dừng lại ở việc làm “mềm” đi màu vẻ khắc dục, đem nhu cầu yêu đương lứa đôi, đem nội dung tình yêu làm đề tài chính trong văn học. Bà chúa thơ Nôm quyết liệt hơn đem cả phương tiện, chất liệu, tinh thần để ca ngợi, khẳng định quyền sống bản năng, giải phóng văn học khỏi xu hướng khắc dục.

Tại sao chúng tôi lại khẳng định nữ sĩ đối phó với cấm kỵ bản năng truyền thống theo cách của văn học dân gian? Để trả lời câu hỏi này, chúng tôi tìm hiểu cách đối phó với cấm kỵ bản năng truyền thống trong văn học dân gian.

Đố tục giảng thanh, đố thanh giảng tục là hiện tượng không chỉ có ở Việt Nam, mà còn diễn ra khá phổ biến ở nhiều nước trên thế giới. Câu đố về những quả, cái, con, cảnh, làm… gì, thường được diễn tả bằng những từ ngữ chỉ bộ phận thân xác của con người hay các động tác liên quan tới bộ phận sinh dục gọi là đố tục giảng thanh. Ví dụ, khi được đố:

Sáu cô trong tỉnh mới ra,

Trắng nõn trắng nuột như hoa rau cần. Ông quan trông thấy tần ngần,

Cua ông chổng vọt như cần câu rô.

(Là cái gì?)

Người giải đố nghĩ ngay đến chuyện trai gái, nhưng lời giải đáp cho câu đố này lại là: bộ ấm chén. Trong dân gian, chúng ta thường bắt gặp những câu đố lấp lửng hai mặt dưới đây:

Canh một thì chải chiếu ra Canh hai bóp vú, canh ba sờ lờ. Canh tư nhấp dập luôn luôn

Canh năm sắm sửa cõng con ra về.

(Là cảnh làm gì?)

Hoặc:

Vừa bằng ngón tay


Hay:


Hay nữa:

Thay lay miếng thịt Thin thít những lông Đời cha đời ông Không ai dám mó.

(Là con gì?)


Dáng tròn vành vạnh đít bảnh bao Mân mân mó mó đút ngay vào Thuỷ hoả tương giao sôi sùng sục Âm dương nhị khí sướng làm sao!

(Là làm gì?)


Chấm chấm mút mút Đút vào lỗ trôn,

Thò hai cái lông Cái dài cái ngắn. (Làm gì?)

Những câu đố này đều khiến người ta đều liên tưởng đến chuyện buồng the, nhưng lời giải chính xác lại là cảnh kéo vó đêm, con sâu dóm, hút thuốc lào (điếu bát), xâu kim chỉ.

Ngược lại với đố tục giảng thanh, đố thanh giảng tục là đố bộ phận tiêu hoá, sinh dục của con người được dân gian vận dụng lối ẩn dụ, ví hoặc chơi chữ nghe ra tưởng chừng rất “thanh” mà lại hoá tục. Chẳng hạn:

- Có khi cứng có khi mềm, khi dài khi ngắn không thêm mà vừa. Anh về hỏi khẽ chị đi, khi mô nó cứng khi mô nó mềm. Khi anh yêu chị suốt đời, anh nằm ngủ mệt nó mềm thuỗn ra.

(Bộ phận sinh dục của người đàn ông)

- Múi mít hạt hồng, lá vông rễ ấu, xấu thì thật xấu, xem vẫn muốn xem, nói đến thì thèm, bảo ăn lại giận.

(Bộ phận sinh dục của đàn bà)

Truyện cười dân gian cùng nằm trong mạch đối phó với cấm kỵ bản năng truyền thống. Đối đáp với Đoàn Thị Điểm [96, 21] là một ví dụ. Câu chuyện kể lại không biết thực hư thế nào. Thị Điểm là con gái thầy học của Trạng Quỳnh, tính tình đoan trang, nết na lại giỏi chữ nghĩa. Quỳnh say mê như điếu đổ, nhưng nhiều phen dở khóc dở cười vì phải ứng phó với Đoàn Thị Điểm, nàng hay ra câu đố hóc búa trong những tình huống cực kỳ khó xử. Chẳng hạn: một hôm nhân lúc trời tối, Thị Điểm vừa ra khỏi phòng có việc, Trạng Quỳnh lẻn vào nằm gọn trong giường Điểm. Thị Điểm về vô tình quờ tay phải, doạ Trạng Quỳnh sẽ mách thầy. Nàng muốn tha tội cho Quỳnh nhưng phải đáp được vế đối bằng chữ Hán: Trướng nội vô phong phàm tự lập (trong trướng không có gió mà cột buồm tự nhiên lại dựng lên). Nếu không đối được sẽ cáo giác Quỳnh với quan Bảng về tội sàm sỡ. Quỳnh vốn thông minh, ứng đối ngay: Hung trung bất vũ thuỷ trường lưu (trong giường không có mưa mà nước vẫn chảy dài). Chúng ta thấy câu đối nhắc đến trướng, gió, cột, giường, mưa, nước là nghĩa thực nhưng đồng thời còn có nghĩa ẩn: “cột” hình tròn, dài khiến liên tưởng đến linga; giường gợi lên chuyện chăn gối; “nước mưa” chỉ sự xuất tinh của đàn ông. Và nghĩa bóng ở đây chính là nhắc đến chuyện tính giao.

Câu truyện Mừng chúa thắng trận cho chúng ta thấy tiếng cười dân gian thật hóm hỉnh, hạ bệ tên chúa chữ nghĩa dốt nát. Chúa Trịnh sau khi tuần du một vùng biên ải miền Tây, trở về kinh khoe khoang “quân nó” vừa thua to, bị quân nhà Chúa nửa đêm bất ngờ phá luỹ đánh dồn dập. Bọn quan quân nịnh thần ra sức ngợi khen dâng biểu chúc tụng. Nhân dịp này, Quỳnh cũng làm một bài thơ để mừng Chúa. Nội dung thơ:

Nửa đêm giờ tý trống canh ba, Thoắt tiến lên thành phá luỹ ra.

Một tướng thẳng vào trong cửa hiểm, Hai quân đứng núp chực bên hà.

Quân ta đổ lộn cùng quân nó,

Xem tất cả 171 trang.

Ngày đăng: 03/02/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí