đề lý luận về BPNC bắt người, bắt người phạm tội quả tang theo pháp luật TTHS Việt Nam; cơ sở pháp lý quy định áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt người phạm tội quả tang trong luật TTHS; thực trạng áp dụng những quy định về biện pháp bắt người phạm tội quả tang trong thời gian qua và một số kiến nghị giải pháp nâng cao hiệu quả công tác áp dụng BPNC bắt người phạm tội quả tang trong thời gian tới.
Phạm vi nghiên cứu: dựa trên nguồn văn bản pháp luật về TTHS và các văn bản pháp luật khác từ những năm 1957 đến nay; dựa trên các báo cáo tổng kết về công tác bắt, tạm giam, tạm giữ của Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) Tối cao từ năm 2008 đến 2012; báo cáo hoạt động trong công tác bắt giữ người phạm tội của Bộ công an, Bộ Quốc Phòng trong năm 2010 và 2011; một số vụ bắt phạm tội quả tang và xét xử trong những năm gần đây.
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng và các quy định của pháp luật của Nhà nước về đấu tranh phòng, chống tội phạm. Ngoài ra, luận văn cũng dựa trên các phương pháp nghiên cứu chuyên ngành Luật hình sự, TTHS và các phương pháp nghiên cứu cụ thể khác như: sử dụng phương pháp phân tích tổng hợp, phương pháp đối chiếu so sánh, phương pháp thống kê và phương pháp lịch sử.
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Đề tài phân tích những vấn đề lý luận, các quy định của pháp luật và những đánh giá thực tiễn của công tác bắt người phạm tội quả tang để đưa ra những dự báo về tình hình bắt người phạm tội quả tang trong thời gian tới. Từ đó, đưa ra một số kiến nghị, giải pháp nâng cao hiệu quả cho công tác bắt người phạm tội quả tang, phục vụ tốt hơn cho công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm. Luận văn góp phần làm phong phú và từng bước hoàn thiện lý luận chuyên ngành, cung cấp các luận cứ để cán bộ thực tế tham khảo và vận dụng vào thực tiễn công tác bắt người phạm tội quả tang. Với ý nghĩa như vậy, luận văn có thể được dùng làm tài liệu tham khảo khi học tập, nghiên cứu về chuyên ngành luật hình
sự, TTHS cho các cơ sở đào tạo của ngành công an và cơ sở đào tạo khác.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài lời nói đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn gồm 3 chương, cụ thể như sau:
Chương 1: Một số vấn đề chung về biện pháp bắt người phạm tội quả tang trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam
Có thể bạn quan tâm!
- Biện pháp ngăn chặn bắt người phạm tội quả tang trong luật Tố Tụng hình sự Việt Nam - 1
- Biện pháp ngăn chặn bắt người phạm tội quả tang trong luật Tố Tụng hình sự Việt Nam - 3
- Đang Làm Việc Phạm Pháp Hoặc Sau Khi Phạm Pháp Thì Bị Phát Giác Ngay. 2- Đang Bị Đuổi Bắt Sau Khi Phạm Pháp.
- Xét Tới Các Tình Tiết Của Vụ Án Cụ Thể, Có Khả Năng Bị Can Sẽ Trốn Tránh (Nguy Cơ Bỏ Trốn) Hoặc
Xem toàn bộ 113 trang tài liệu này.
Chương 2: Những quy định về biện pháp bắt người phạm tội quả tang theo Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 và thực tiễn áp dụng
Chương 3: Một số kiến nghị và giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về biện pháp bắt người phạm tội quả tang và nâng cao hiệu quả áp dụng.
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BIỆN PHÁP BẮT NGƯỜI PHẠM TỘI QUẢ TANG TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. Một số vấn đề chung về biện pháp bắt người và bắt người phạm tội quả tang trong luật tố tụng hình sự
1.1.1. Quan niệm về biện pháp bắt người trong luật tố tụng hình sự
Bắt người là BPNC có tính cưỡng chế nghiêm khắc, vì vậy việc bắt người nhất thiết phải tuân thủ các căn cứ, trình tự, thủ tục rất chặt chẽ mà pháp luật quy định. Bắt người nhằm kịp thời ngăn chặn tội phạm, ngăn ngừa người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trốn tránh pháp luật, nhằm tạo điều kiện bảo đảm cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án được thuận lợi. Theo quy định của Bộ luật TTHS thì bắt người là một trong những BPNC do cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án áp dụng đối với bị can, bị cáo và có thể đối với người chưa bị khởi tố nhằm ngăn chặn hành vi tội phạm, ngăn ngừa việc người phạm tội trốn tránh pháp luật, bảo đảm cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự được thuận lợi, đúng pháp luật. Hậu quả của việc bắt người nhầm lẫn, oan sai sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến các quyền hiến định của công dân, hạn chế một số quyền tự do của cá nhân có tác hại rất lớn đến tính nghiêm minh của pháp luật, ảnh hưởng xấu đến lòng tin của nhân dân đối với cơ quan pháp luật. Đó là quyền bất khả xâm phạm về thân thể của con người mà Điều 71 của Hiến pháp năm 1992 đã ghi nhận: “Không ai bị bắt, nếu không có quyết định của Tòa án nhân dân, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân, trừ trường hợp do phạm tội quả tang. Việc bắt và giam giữ người phải đúng pháp luật”. Chỉ được bắt người theo TTHS khi có quyết định của Tòa án, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát và chỉ duy nhất trường hợp bắt người phạm tội quả tang thì không cần có quyết định của Tòa án, quyết định phê chuẩn của VKSND. Nếu bắt người trái pháp luật sẽ gây tác hại nghiêm trọng về nhiều mặt: Quyền và lợi ích của công dân bị xâm phạm, hiệu lực của pháp luật, uy tín của
Nhà nước nói chung và của các cơ quan bảo vệ pháp luật nói riêng bị suy giảm.
Đối tượng của công tác bắt là con người cho nên việc bắt đòi hỏi phải đảm bảo chặt chẽ, chính xác của pháp luật đảm bảo được quyền bất khả xâm phạm. Bắt người không phải là một biện pháp hoặc hình thức trừng phạt của pháp luật đối với người phạm tội. Việc bắt đúng có tác dụng tích cực cho việc ngăn chặn và chống những âm mưu, thủ đoạn chống đối của người phạm tội, không cho họ tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội, che giấu, trốn tránh hoặc gây khó khăn cho việc xác định làm rõ sự thật của vụ án.
Trong khoa học luật TTHS thủ tục bắt người được nhiều tác giả nghiên cứu và có những quan niệm, ý kiến khác nhau, cụ thể:
Theo quan niệm của Ths.Nguyễn Mai Bộ: Bắt người là giữ người phạm pháp lại, không cho tiếp tục tự do hoạt động, chặn đứng hành động phạm tội đề phòng người đó lẩn trốn, tự sát, tiêu hủy chứng cứ hoặc gây trở ngại cho việc điều tra. Bắt người là một trong những biện pháp cưỡng chế cần thiết nhất của Nhà nước để trấn áp, ngăn chặn những hành động phạm tội… Bắt người là một trong những BPNC do Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án áp dụng đối với bị can, bị cáo và có thể đối với người chưa bị khởi tố nhằm ngăn chặn tội phạm, ngăn ngừa việc người phạm tội trốn tránh pháp luật, bảo đảm cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành hình sự được thuận lợi và đúng pháp luật [11, tr. 31-32].
Trong Giáo trình Luật TTHS Việt Nam - Khoa luật, Đại học Quốc Gia Hà Nội thì bắt người là BPNC trong TTHS được áp dụng đối với bị can, bị cáo, người bị nghi thực hiện tội phạm hoặc người phạm tội quả tang hoặc người đang có lệnh truy nã nhằm kịp thời ngăn chặn tội phạm, ngăn ngừa họ phạm tội, tạo điều kiện thuận lợi cho công tác điều tra, truy tố, xét xử và thi hành bản án hình sự [21, tr.199].
Còn theo Giáo trình Luật TTHS Việt Nam của Trung tâm Đào tạo từ xa Đại học Mở Hà Nội, bắt người là BPNC trong TTHS do Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án áp dụng đối với bị can, bị cáo và có thể đối với người chưa bị khởi tố nhằm ngăn chặn tội phạm, ngăn ngừa việc người phạm tội trốn tránh pháp luật,
bảo đảm cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự được thuận lợi và đúng pháp luật [48, tr.214].
Tác giả Giáo trình Luật TTHS của Trường Đại học Luật Hà Nội lại quan niệm “bắt người là BPNC trong TTHS được áp dụng đối với bị can, bị cáo, người đang bị truy nã và trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang thì áp dụng cả đối với người chưa bị khởi tố về hình sự nhằm ngăn chặn hành vi phạm tội của họ, ngăn ngừa họ trốn tránh pháp luật, tạo điều kiện thuận lợi cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự” [50, tr.197].
Cả bốn quan niệm trên về biện pháp bắt người đều có những hạt nhân hợp lý, tuy nhiên có điểm không hợp lý khi cho rằng một trong những mục đích của bắt người là “Tạo điều kiện thuận lợi cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành bản án hình sự”. Đồng thời quan điểm cho rằng việc áp dụng BPNC bắt người đều do Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án áp dụng đã làm thiếu đi vai trò và thẩm quyền của công dân khi tham gia bắt người phạm tội quả tang và bắt truy nã.
TS. Trần Quang Tiệp đưa ra quan niệm bắt là BPNC trong TTHS, do người có thẩm quyền áp dụng, tạm thời hạn chế tự do thân thể đối với bị can, bị cáo hoặc người chưa bị khởi tố (trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang) theo những trình tự, thủ tục do pháp luật TTHS quy định, nhằm ngăn chặn tội phạm, người thực hiện tội phạm trốn tránh pháp luật, bảo đảm cho việc tiến hành hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án [45, tr.89].
Với quan niệm này có thể thấy biện pháp bắt là một BPNC độc lập trong TTHS.
Theo TS. Nguyễn Văn Điệp cho rằng: “Bắt là biện pháp cưỡng chế được quy định trong pháp luật TTHS do cơ quan, người có thẩm quyền do luật định áp dụng đối với bị can, bị cáo hoặc người chưa bị khởi tố; người đang có hành vi phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã khi có căn cứ do Bộ luật TTHS quy định, nhằm kịp thời ngăn chặn tội phạm, ngăn chặn việc bị can, bị cáo gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án” [23, tr.12-13].
Hai quan niệm trên có sự tương đồng và thống nhất người có quyền áp dụng là “cơ quan, người có thẩm quyền”. Việc quy định này đã khắc phục được hạn chế trong những quan niệm trước đây. Tuy nhiên việc liệt kê đối tượng bị áp dụng lại khá dài.
Từ những phân tích trên, theo chúng tôi, có thể đưa ra khái niệm về biện pháp bắt người trong TTHS như sau: Bắt người là biện pháp ngăn trong tố tụng hình sự do người có thẩm quyền áp dụng đối với những người có hành vi phạm tội theo đúng trình tự, thủ tục pháp luật tố tụng hình sự quy định, nhằm ngăn chặn tội phạm, người thực hiện tội phạm trốn tránh pháp luật, bảo đảm cho việc tiến hành hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án.
Nhà nước ta từ lâu đã coi bắt người là một chế định pháp lý quan trọng không những trong TTHS mà cả trong tố tụng hành chính. Chế định bắt người chiếm một vị trí xứng đáng trong các văn bản pháp luật do Nhà nước ban hành. Bắt không theo quy định của pháp luật: bắt nhầm (bắt oan, sai) người vô tội sẽ gây một tác hại rất lớn, ảnh hưởng xấu đến lòng tin của nhân dân đối với cơ quan bảo vệ pháp luật, tạo điều kiện cho các thế lực thù địch lợi dụng chiêu bài nhân quyền để chống phá Nhà nước ta. Vì vậy, khi bắt người phải thể hiện thái độ kiên quyết đấu tranh chống tội phạm, song cũng phải thận trọng khi xem xét đánh giá chứng cứ. Quá trình thực hiện bộ luật TTHS các cơ quan tư pháp như: Bộ công an, VKSND tối cao, TAND tối cao, Bộ Tư pháp, đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật đơn ngành, liên ngành để hướng dẫn việc áp dụng BPNC trong đó có biện pháp bắt người [45].
Quy định và áp dụng BPNC bắt người trong TTHS có ý nghĩa lớn trong việc đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm:
Một là, thể hiện sự chuyên chính của nhà nước XHCN trong việc đấu tranh và phòng chống tội phạm. Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội xâm phạm tới các quan hệ xã hội bền vững mà nhà nước bảo vệ. Do đó, công tác đấu tranh, chống và phòng ngừa những hành vi phạm tội nhằm tiến tới loại trừ những hiện tượng phạm tội ra khỏi đời sống xã hội là một trong những nhiệm vụ quan trọng
nhất và phải được tiến hành một cách kiên quyết, triệt để, không khoan nhượng.
Hai là, bảo đảm cho các hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng được thuận lợi, góp phần quan trọng nâng cao hiệu quả của cuộc đấu tranh, phòng chống tội phạm. Thông thường, người phạm tội ý thức rất rõ về hậu quả pháp lý mà mình phải chịu do việc thực hiện tội phạm nên họ tìm đủ mọi cách để có thể nhanh chóng đạt được mục đích phạm tội lại vừa có thể che giấu, trốn tránh được sự phát hiện và trừng phạt của pháp luật. Việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế cần thiết nhằm ngăn chặn những hành vi phạm tội, đang phạm tội hoặc trốn tránh kịp thời và hiệu quả. Góp phần hạn chế đến mức thấp nhất những khó khăn mà người phạm tội có thể gây ra cho quá trình giải quyết vụ án.
Ba là, bảo đảm sự dân chủ, tôn trọng các quyền cơ bản của công dân được hiến pháp quy định như quyền bất khả xâm phạm về thân thể, quyền tự do cư trú và đi lại, thể hiện tính ưu việt của chế độ XHCN. Quy định BPNC bắt người không chỉ đơn thuần tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện tốt nhiệm vụ theo chức năng của mình mà còn nhằm đảm bảo sự tôn trọng và thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân đã được quy định trong hiến pháp. Sự tuân thủ các quy định của pháp luật TTHS khi áp dụng, thay đổi hay hủy bỏ một BPNC nào đó về các phương diện như: sự cần thiết phải áp dụng, thay đổi, hủy bỏ, đối tượng áp dụng…; căn cứ áp dụng; thẩm quyền; thủ tục áp dụng… trước hết là xuất phát từ sự tôn trọng các quyền và lợi ích hợp pháp của con người [50].
Việc bắt người có tác động trực tiếp đến quyền tự do về thân thể bởi vậy khi áp dụng cần phải cân nhắc hết sức thận trọng khi quyết định việc bắt. Bắt người đúng pháp luật sẽ góp phần nâng cao hiệu quả của cuộc đấu tranh chống và ngăn ngừa tội phạm. Chính vì vậy, việc quy định những cơ sở pháp lý cho việc áp dụng BPNC bắt người là một yêu cầu cấp thiết và quan trọng trong TTHS Việt Nam. TS. Nguyễn Vạn Nguyên và một số tác giả khác chia biện pháp bắt người thành bốn loại: Bắt bị can, bị cáo để tạm giam; bắt người trong trường hợp khẩn cấp, bắt người phạm tội quả tang, bắt người đang bị truy nã [28]. Nhưng theo
Chương VI, Bộ luật TTHS năm 2003 quy định ba trường hợp bắt người gồm:
- Bắt bị can, bị cáo để tạm giam;
- Bắt người trong trường hợp khẩn cấp;
- Bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã.
Căn cứ vào đối tượng bị bắt, có thể chia các biện pháp bắt người thành các loại: Bắt bị can, bị cáo để tạm giam; bắt người trong trường hợp khẩn cấp; Bắt người đang phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã và bắt một số đối tượng đặc biệt [28, tr.198].
Như vậy, dù phân loại có khác nhau, nhưng tất cả các tác giả và nhà làm luật đều khẳng định bắt người phạm tội quả tang là một trong những trường hợp bắt được phân loại và quy định rõ trong Bộ luật TTHS.
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa và các nguyên tắc của biện pháp bắt người phạm tội quả tang
* Theo từ điển Tiếng Việt “quả tang” có nghĩa là: có tang vật dành dành, tức có chứng cứ dành dành [68, tr.90]. Suy ra, phạm tội quả tang là phạm tội có chứng cứ dành dành, rõ ràng, không cần phải kiểm tra, xác minh.
Bắt người phạm tội quả tang là trường hợp bắt người áp dụng đối với người đang thực hiện tội phạm hoặc ngay sau khi thực hiện tội phạm thì bị phát hiện hoặc bị đuổi bắt. Những hành vi phạm tội đó phải trực tiếp xâm hại đến các quan hệ xã hội mà pháp luật bảo vệ được quy định trong các chương về tội phạm cụ thể. Lỗi của người phạm tội trong trường hợp bắt phạm tội quả tang thường là lỗi cố ý trực tiếp. Quả tang thông thường được hiểu là những tang vật (tài sản chiếm đoạt: xe máy, tiền, điện thoại, vàng bạc; công cụ phương tiện phạm tội: con dao, côn,… của người phạm tội) được thể hiện dưới dạng vật chất cụ thể, được nhìn thấy rõ ràng trước mắt. Bởi vậy, tang vật khi bắt giữ người phạm tội quả tang được coi là nguồn chứng cứ rất quan trọng làm cơ sở cho các hoạt động tố tụng để giải quyết vụ án hình sự nhất là trong hoạt động giải quyết vụ án hình sự theo thủ tục rút gọn.
Theo Điều 2 Sắc lệnh số 40-SL ngày 29-3-1946 có định nghĩa phạm pháp