Hai nghiên cứu này cũng đã tổng quát hóa những bài học kinh nghiệm về tái cấu trúc hệ thống ngân hàng tại các quốc gia như: (i) Đánh giá đúng bản chất và phạm vi những vấn đề của hệ thống ngân hàng là một yếu tố quan trọng của quá trình tái cấu trúc – cần có phương pháp tiếp cận toàn diện (trên các khía cạnh: giải quyết ngân hàng yếu kém, giải quyết những sai sót trong hệ thống kế toán và khuôn khổ pháp lý, tăng cường quản trị doanh nghiệp và quản trị rủi ro);
(ii) Tái cấu trúc hệ thống ngân hàng cần có một đơn vị đi đầu (thường là ngân hàng trung ương) nhằm thiết kế các thước đo kết quả của quá trình tái cấu trúc và tách biệt nhiệm vụ, quyền lợi của các ngân hàng phải tái cơ cấu đối với những ngân hàng còn lại trong hệ thống và luôn sẵn sàng để hỗ trợ thanh khoản khi cần thiết trong suốt quá trình tái cơ cấu này; (iii) Chính phủ cần có chính sách đóng cửa hoặc hỗ trợ tài chính đối với các ngân hàng yếu kém – nguyên tắc chia sẻ tổn thất giữa Chính phủ, các ngân hàng, và công chúng là một phần quan trọng cho thành công của quá trình tái cấu trúc; (iv) Việc loại bỏ nợ xấu ra khỏi bảng cân đối của các ngân hàng và chuyển các khoản nợ đó sang một tổ chức khôi phục nợ độc lập là một phương pháp hiệu quả được các quốc gia sử dụng, đồng thời, cũng là phương thức để giảm thiểu chi phí của quá trình tái cấu trúc ngân hàng và gửi tín hiệu đến những đối tượng vay nợ vị phạm.
Như vậy, các nghiên cứu của học giả quốc tế cho thấy hoạt động tái cơ cấu ngân hàng tại các quốc gia cần tuân thủ một số nguyên tắc chung và phải thực hiện một cách triệt để, toàn diện trên mọi khía cạnh của hệ thống ngân hàng. Tuy nhiên, từng quốc gia phải dựa vào bản chất và mức độ của những vấn đề đang tồn tại trong hệ thống ngân hàng để xác định những phương pháp tiếp cận quá trình tái cấu túc phù hợp nhất.
1.2. Tình hình nghiên cứu về cải cách hệ thống ngân hàng tại Trung Quốc
Hiện nay, các nguồn tài liệu, số liệu liên quan đến lĩnh vực tài chính – ngân hàng của Trung Quốc chưa nhiều, thông tin cũng không hoàn toàn nhất quán, vì vậy, nhằm bảo đảm tính xác thực và khả tín của nghiên cứu, tác giả sử dụng thông tin từ các nguồn chính thống như từ các cơ quan của chính phủ Trung Quốc, các tổ chức, tạp chí, trung tâm nghiên cứu và học giả có uy tín tại Trung Quốc và quốc tế.
Hiện nay, các học giả quốc tế cũng như tại Trung Quốc còn có nhiều đánh giá khác nhau về mức độ thành công, cũng như tồn tại, hạn chế của quá trình tái cấu trúc hệ thống ngân hàng tại Trung Quốc diễn ra trong hơn hai thập niên vừa qua (Tong, 2013) [133]. Sự khác biệt này bắt nguồn từ hai trường phái tiếp cận khác nhau về vai trò của nhà nước trong hệ thống ngân hàng: (i) Trường phái ủng hộ quan điểm của Stiglitz và Weiss (1981), Greenwald và Stiglitz, (1986) cho rằng nhà nước cần đóng vai trò tích cực trong việc khắc phục xu thế độc quyền tự nhiên và tâm lý hoảng loạn trong hệ thống ngân hàng và (ii) Trường phái ủng hộ quan điểm của Shleifer và Vishny (1998) cho rằng sở hữu của nhà nước trong hệ thống ngân hàng sẽ khiến hệ thống ngân hàng trở nên kém hiệu quả và bị chi phối bởi những mục tiêu/quyết định chính trị, cũng như những rủi ro đạo đức (moral hazard) và những vấn đề ủy thác – nhậm thác (principal–agent problems).
1.2.1. Những đánh giá tích cực cho rằng quá trình cải cách hệ thống ngân hàng tại Trung Quốc đã đạt được những thành tựu cơ bản, tạo nền tảng quan trọng cho tốc độ tăng trưởng nhanh và những thành tựu phát triển kinh tế của Trung Quốc trong những thập niên qua gồm:
Alicia, Sergio và Daniel (2006) khi nghiên cứu 03 trụ cột tái cấu trúc hệ thống ngân hàng của Trung Quốc (gồm: (i) Xử lý NPL và bổ sung vốn (từ ngân sách) cho 04 NHTMNN lớn nhất; (ii) Từng bước mở của thị trường ngân hàng trong khi vẫn kiểm soát chặt tài khoản vốn; (iii) Tăng cường các quy định về tài chính và kiểm tra đối với hệ thống ngân hàng), cho thấy mức độ lành mạnh của hệ thống ngân hàng Trung Quốc đã được cải thiện đáng kể, đặc biệt là về chất lượng tài sản. Nghiên cứu cũng cho rằng, kể từ sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2007-2008, quá trình tái cấu trúc hệ thống ngân hàng tại Trung Quốc đã bước vào giai đoạn mới, đòi hỏi phải có những chiến lược mới mang tính dài hạn hơn nhằm đối phó với rủi ro hình thành NPLs mới tại các ngân hàng đã được tái cấp vốn trong giai đoạn vừa qua, như thay đổi cấu trúc sở hữu [45].
Chunxia và Shujie (2010) khảo sát 47 ngân hàng tại Trung Quốc, sử dụng Phương pháp phân tích biên ngẫu nhiên một bước (One-step stochastic frontier analysis) để đánh giá hiệu quả của hệ thống ngân hàng Trung Quốc trong giai đoạn 1995-2008 gắn với các chính sách/biện pháp tái cấu trúc chủ yếu, trong đó
tập trung phân tích các hiệu ứng về sở hữu, lựa chọn và hiệu ứng động về tác động của những thay đổi trong quản trị tới hoạt động của ngân hàng. Nghiên cứu cho thấy hiệu quả của hệ thống ngân hàng đã được cải thiện trong giai đoạn 1995-2008 (cụ thể, hiệu quả về lợi nhận được cải thiện nhanh hơn hiệu quả về chi phí; yếu tố sở hữu thay đổi có tác động lớn đến hiệu quả hoạt động chung của hệ thống ngân hàng), trong đó, nhóm các ngân hàng thương mại tư nhân (JSCBs) và ngân hàng thương mại đô thị (CCBs) hoạt động hiệu quả hơn hẳn ngân hàng thương mại quốc doanh (SOCBs) trên hầu hết các chỉ tiêu. Nghiên cứu cho rằng, cổ phần hóa không triệt để và sự tiếp tục can thiệp của Chính phủ đối với SOCBs là nguyên nhân chính dẫn đến hiệu quả hạn chế và không đồng đều của quá trình tái cấu trúc. Do đó, nghiên cứu đưa ra kết luận, yếu tố then chốt để tái cấu trúc thành công hệ thống ngân hàng Trung Quốc trong gian đoạn tới là thay đổi nền tảng điều hành, ra quyết định dựa trên yếu tố lợi nhuận (profit-driven) hơn là cho vay chính sách (policy-oriented) như hiện nay [58].
Có thể bạn quan tâm!
- Cải cách hệ thống ngân hàng trung quốc và một số bài học kinh nghiệm cho tiến trình tái cấu trúc hệ thống ngân hàng Việt Nam - 1
- Cải cách hệ thống ngân hàng trung quốc và một số bài học kinh nghiệm cho tiến trình tái cấu trúc hệ thống ngân hàng Việt Nam - 2
- Hệ Thống Ngân Hàng Và Những Nguyên Nhân Cơ Bản Cần Tái Cấu Trúc Hệ Thống Ngân Hàng
- Bối Cảnh, Vai Trò Của Nhà Nước Và Xu Hướng Tái Cấu Trúc Hệ Thống Ngân Hàng
- So Sánh Quá Trình Mua Lại, Hợp Nhất, Sát Nhập Của Một Số Nước Châu Á Nhằm Ứng Phó Với Cuộc Khủng Hoảng Tài Chính 1997 -1998
Xem toàn bộ 127 trang tài liệu này.
Berger, Hasan và Zhou (2009) nghiên cứu về hiệu quả hoạt động của 4 NHTMQD đang kiểm soát ¾ tổng tài sản của hệ thống ngân hàng của Trung Quốc (nhóm “Big Four”) trong giai đoạn 1994-2003 và kết luận nhóm ngân hàng này hoạt động kém hiệu quả về lợi nhuận so với các nhóm ngân hàng còn lại (mẫu nghiên cứu gồm 38 ngân hàng lớn nhất - chiếm 95% tổng giá trị tài sản của thị trường ngân hàng Trung Quốc), đồng thời cho thấy chỉ cần tỷ lệ nhỏ (thiểu số) tham gia của cổ đông nước ngoài cũng có thể giúp cải thiện đáng kể hiệu quả hoạt động (cả về lợi nhuận và chi phí) của nhóm “Big Four” [42]. Kết quả này trái ngược với nghiên cứu của Chunxia và Shujie (2010), khi nghiên cứu trên một mẫu rộng hơn (với 47 ngân hàng thuộc các nhóm), kết luận rằng sư tham gia của cổ đông nước ngoài có tác động tiêu cực đến hiệu quả về lợi nhuận của ngân hàng. Nghiên cứu cho rằng, nguyên nhân cơ bản của kết quả trên là do các cổ đông nước ngoài đã chuyển giao kỹ năng quản trị và văn hóa kinh doanh cho các ngân hàng trong nhóm “Big Four”, đặc biệt là cải thiện chất lượng báo cáo và sự tuân thủ thị trường. Nghiên cứu khuyến nghị, cần cho phép các nhà đầu tư nước ngoài tham gia cổ phần ở các ngân hàng thương mại quốc doanh khác (không thuộc nhóm “Big Four) để cải thiện hiệu quả hoạt động của các ngân hàng này.
Barth, Koepp và Zhou (2004) nghiên cứu mối quan hệ giữa các nhân tố ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc trong giai đoạn 1978-2003 và kết luận rằng những cải cách trong lĩnh vực tài chính, đặc biệt là tái cơ cấu hệ thống ngân hàng (kênh cung cấp vốn chủ yếu cho nền kinh tế) là nhân tố kinh tế quan trọng nhất [51]. Nghiên cứu này mặc dù ghi nhận tính dễ bị tổn thương của hệ thống ngân hàng Trung Quốc (do tỷ lệ và cấu trúc nợ xấu trong hệ thống), song vẫn khẳng định những thành tựu của tái cấu trúc hệ thống ngân hàng là chủ yếu và sẽ tiếp tục là nhân tố xúc tác quyết định đối với tăng trưởng của nền kinh tế Trung Quốc trong tương lai.
1.2.2. Những đánh giá tiêu cực hơn về kết quả tiến trình cải cách hệ thống ngân hàng tại Trung Quốc cho rằng phần lớn những chính sách và biện pháp tái cấu trúc được áp dụng thời gian qua mới khắc phục được khả năng thanh toán (solvency restructuring) của các ngân hàng (thông qua tái cấp vốn, cải thiện bảng cân đối tài sản của ngân hàng), nhưng chưa tạo nên sự thay đổi căn bản về mô hình hoạt động, cấu trúc thị trường (operational restructuring) của các ngân hàng này (như cải thiện khả năng sinh lời và khả năng thanh toán bền vững của ngân hàng) theo hướng bền vững và hiện đại (Li Wen-hong, 2001) [103], cụ thể:
Nghiên cứu của Genevieve và Shang-Jin (2005) về vấn đề mất cân đối giữa tỷ lệ tiết kiệm và đầu tư tại các khu vực kinh tế khác nhau của Trung Quốc và vai trò trung gian tài chính của hệ thống ngân hàng nước này kết luận chính sự chi phối của nhà nước, thông qua hệ thống các ngân hàng thương mại quốc doanh (đặc biệt là nhóm “Big Four”) đã dẫn đến sự chia cắt trong thị trường ngân hàng Trung Quốc (giữa các địa phương và lĩnh vực kinh tế). Cụ thể, mặc dù không có những quy định hạn chế về dịch chuyển vốn giữa các khu vực, tỷ lệ dịch chuyển vốn trên thực tế rất thấp do chính quyền, đặc biệt là các chính quyền địa phương có xu hướng tác động một cách có hệ thống vào chi nhánh của các ngân hàng thương mại quốc doanh để phân bổ tín dụng theo mục tiêu chính trị, vào những lĩnh vực, khu vực có hiệu quả kinh tế thấp; đồng thời nghiên cứu cảnh báo mức độ dich chuyển vốn tại Trung Quốc đã giảm đi đáng kể trong những năm 1990 (so với những năm 1980) cùng với sự phân cấp và tăng quyền cho các địa phương. Nghiên cứu khuyến nghị cần thiết phải giảm vai trò của nhà nước trong thị trường ngân hàng nhằm tăng hiệu quả kinh tế và tốc độ tăng trưởng [79].
Guonan Ma (2007) sử dụng khung phân tích của Dziobek (1998) nghiên cứu về chi phí và việc phân bổ chi phí trong quá trình tái cấu trúc hệ thống ngân hàng Trung Quốc. Nghiên cứu ước tính riêng chi phí cải thiện bảng cân đối tài sản của các ngân hàng tại nước này (chủ yếu là xử lý nợ xấu) trong giai đoạn 1998- 2006 lên đến khoảng 22% GDP (theo giá trị năm 2007), trong đó, người nộp thuế phải gánh chịu nặng nề nhất, khoảng 85% tổng chi phí (trích từ ngân sách), phần chi phí còn lại thuộc về POBC, các cổ đông và khách hàng của các ngân hàng liên quan. Nghiên cứu cũng chỉ ra sự phức tạp và kém minh bạch trong các thỏa thuận về chia sẻ chi phí tái cấu trúc hệ thống ngân hàng tại Trung Quốc, trong đó có những giải pháp tái cơ cấu rất tốn kém và thiếu bền vững (như giải quyết nợ xấu cũ và ngăn ngừa nợ xấu mới hình thành nhưng không cải cách cơ chế cấp tín dụng và quản trị rủi ro thỏa đáng), nhiều chi phí chưa được thanh toán (trở thành những khoản nợ trong tương lại). Do đó, khuyến nghị xây dựng cơ chế chia sẻ chi phí hợp lý giữa các bên liên quan để tránh vấn đề “rủi ro đạo đức” và cân đối nguồn lực để tiếp tục tái cơ cấu, có tính đến nguồn lực từ các nhà đầu tư nước ngoài [83].
Xiaoqing và Shelagh (2006) nghiên cứu mối quan hệ giữa cấu trúc và hiệu quả của thị trường ngân hàng Trung Quốc trong giai đoạn 1985-2002 sử dụng phương pháp tiếp cận của Berger (1995) và Goldberg, Rai (1996) về ước tính dữ liệu chuỗi (panel data estimation) để kiểm tra giả thiết về sức mạnh thị trường và hiệu quả cấu trúc; đồng thời, các tác giả của nghiên cứu cũng mở rộng mô hình này để xét đến những tác động từ quy mô và sở hữu của các ngân hàng và áp lực cạnh tranh đối với nhóm “Big Four”. Nghiên cứu cho thấy, trung bình, hệ số hiệu quả X (X-efficiency) giảm đáng kể và phần lớn các ngân hàng hoạt động dưới mức quy mô hiệu quả. Kết quả nghiên cứu cho thấy các biện pháp tái cấu trúc có ít tác động đến cấu trúc hệ thống ngân hàng Trung Quốc, theo đó, chỉ có các ngân hàng liên doanh là đạt được hệ số hiệu quả X cao hơn từ những biện pháp này. Nghiên cứu cũng kết luận, do các biện pháp kiểm soát lãi suất của nhà nước, nhóm “Big Four” không dành được lợi nhuận độc quyền và vẫn phải chịu sự cạnh tranh từ các ngân hàng quy mô nhỏ [140].
Kết luận này trái ngược với kết quả nghiên cứu của Sayuri (2001), sử dụng mô hình tương tự nhưng áp dụng cho giai đoạn ngắn hơn (1996-2000) và kết luận rằng cạnh tranh chủ yếu chỉ xảy ra ở phân khúc cuối của thị trường (giữa các ngân hàng quy mô nhỏ hơn) trong khi nhóm “Big Four” vẫn chiếm thị phần
huy động khoảng 80% tổng tiền gửi của toàn thị trường và không có cạnh tranh đáng kể do sự phân định lĩnh vực thị trường từ phía nhà nước [127]. Nghiên cứu này cũng chỉ ra những khác biệt mang tính hệ thống về khả năng sinh lời và hiệu quả về chi phí giữa nhóm “Big Four” và các ngân hàng còn lại trong hệ thống. Cụ thể, nhóm các ngân hàng còn lại có khả năng sinh lời, hiệu quả về chi phí, cao hơn và tỷ lệ đòn bẩy ít hơn, và cấu trúc bảng cân đối tài sản lành mạnh hơn, cũng như các tiêu chuẩn cấp tín dụng chặt chẽ hơn nhóm“Big Four”.
Bổ sung thêm vào quan điểm hoài nghi về thành công của quá trình tái cấu trúc hệ thống ngân hàng Trung Quốc, DaCosta và Ping (2002) nghiên cứu các tác động kinh tế - xã hội của quá trình tái cấu trúc từng bước hệ thống ngân hàng trong hơn 2 thập niên qua của nước này và cho thấy có sự khác biệt đáng kể về các chỉ tiêu kinh tế và tài chính vĩ mô giữa giai đoạn trước và sau năm 1993 (ngoại trừ tốc độ gia tăng tín dụng và tiền gửi nội địa, tỷ lệ giữa nợ nước ngoài trên tổng tiền gửi); các biện pháp kiểm soát kênh truyền tải tiền tệ có thể thay đổi nhưng cơ chế kiểm soát theo mệnh lệnh hành chính vẫn được duy trì, dẫn tới tình trạng phần lớn tín dụng trong nền kinh tế vẫn chảy vào khu vực kinh tế/doanh nghiệp nhà nước kém hiệu quả. Nghiên cứu kết luận, mặc dù những biện pháp tái cấu trúc hệ thống ngân hàng Trung Quốc thời gian qua đã đẩy lùi nguy cơ khủng hoảng trước mắt thì những rủi ro đổ vỡ vẫn hiện hữu, xuất phát từ sự kém hiệu quả trong hoạt động (do những định hướng cho vay chính sách và bù đắp thâm hụt tài khóa) [64].
Tóm lại, phần lớn các nghiên cứu của học giả quốc tế và tại Trung Quốc mặc dù ghi nhận những thành công và đóng góp của tiến trình tái cấu trúc hệ thống ngân hàng nước này vào kỳ tích tăng trưởng của nền kinh tế của nước này trong hơn 2 thập niên vừa qua, nhưng đều thống nhất rằng quá trình này cần được tiếp tục đẩy mạnh, với ưu tiên trước mắt là đẩy mạnh cổ phần hóa các ngân hàng thương mại nhà nước, đặc biệt là nhóm “Big Four”, nhằm khắc phục những bất cân đối và rủi ro phát sinh từ cơ chế phân bổ tín dụng theo chính sách (hơn là theo hiệu quả kinh tế) hiện nay. Tuy nhiên các nghiên cứu cũng cảnh báo quá trình cổ phần hóa cần có lộ trình phù hợp để tránh gây ra bất ổn và rủi ro cho thị trường ngân hàng, như bài học được rút ra từ quá trình cổ phần hóa nhanh chóng tại Chi- lê đầu những năm 1980 (của thế kỷ XX) và Mê-hi-cô năm 1995 dẫn đến khủng hoảng ngân hàng tại các nước này ngay sau đó (Dziobek và Pazarbasioglu, 1997).
Có thể thấy, những nghiên cứu, bài viết về tái cơ cấu hệ thống ngân hàng Trung Quốc cho tới nay của các học giả trong và ngoài Trung Quốc mới chỉ phán ánh những khía cạnh khác nhau của quá trình này và chưa sâu chuỗi một cách có hệ thống đầy đủ về những bài học rút ra từ quá trình tái cấu trúc hệ thống ngân hàng của Trung Quốc đối với các nền kinh tế kinh tế đang phát triển và chuyển đổi như Việt Nam. Bên cạnh đó, đây là những công trình nghiên cứu, bài viết tương đối hạn chế về mặt thời điểm nên chưa cập nhật được những cải cách lĩnh vực ngân hàng của Trung Quốc kể từ sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2007-2008 và sau Hội nghị Trung ương 3 (Khóa XVIII) của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Do đó, luận án góp phần cập nhật quá trình cải cách hệ thống ngân hàng tại Trung Quốc để rút ra những khuyến nghị chính sách cho Việt Nam.
1.3. Tình hình nghiên cứu về tái cấu trúc hệ thống ngân hàng tại Việt Nam
Các nghiên cứu về kinh nghiệm quốc tế trong cải cách lĩnh vực ngân hàng từ trước đến nay thường theo hai cách tiếp cận chủ yếu (i) đặt cải cách hệ thống ngân hàng từ tổng thể cải cách nền kinh tế nói chung, do đó chưa đi sâu phân tích những bài học kinh nghiệm cụ thể về chính sách cho hệ thống ngân hàng Việt nam trong quá trình tái cấu trúc; (ii) tập trung vào một khía cạnh, lĩnh vực chuyên biệt của cải cách ngân hàng nên chưa hệ thống hóa được các khuyến nghị chính sách về cải cách hệ thống ngân hàng trong một chỉnh thể thống nhất. Một số nghiên cứu tiêu biểu có thể kể đến:
Nghiên cứu của Nguyễn Hồng Sơn (2012) về “Tái cấu trúc hệ thống ngân hàng: Kinh nghiệm quốc tế và hàm ý về tư duy cho Việt Nam”, đã nêu tương đối rõ về động lực, nguyên nhân mà các nền kinh tế mới nổi cần bắt tay ngay vào thực hiện tái cơ cấu kinh tế sau khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008 vừa qua. Bài viết đã đề cập đến kinh nghiệm tái cơ cấu kinh tế của một số nước như Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc và các nước ASEAN [27]. Tuy nhiên, tác giả mới dừng lại ở việc nêu khái quát mô hình cải cách mà chưa phân tích sâu về các nội dung cụ thể của tái cơ cấu lĩnh vực ngân hàng tại các nước này.
Nghiên cứu chuyên đề của Viện Quản lý kinh tế Trung ương về “Cơ cấu lại nền kinh tế: một số vấn đề về nhận thức và kinh nghiệm một số nước” đã tổng hợp và phân tích khá chi tiết về quá trình thực hiện và kinh nghiệm của một số nước châu Á tiến hành tái cấu trúc nền kinh tế, trong đó có kinh nghiệm rất đáng
quý của các nước như: Nhật Bản, Trung Quốc, Thái Lan, Ma-lai-xia [11]. Tuy nhiên, chuyên đề mới chủ yếu phân tích vấn đề tái cấu trúc trong nền sản xuất thực và cũng chỉ ra cần có những nghiên cứu chuyên sâu về tái cấu trúc lĩnh vực tài chính – ngân hàng trong tương lai.
Cuốn sách “Tái cơ cấu Hệ thống tài chính Hàn Quốc sau Khủng hoảng tài chính 1997 - 1998, Những kinh nghiệm và gợi ý cho Việt Nam” đã phân tích khá chi tiết về công cuộc cải tổ kinh tế sau khủng hoảng tài chính châu Á và một số gợi ý phù hợp cho việc tái cơ cấu hệ tài chính của Việt Nam. Tuy nhiên, tác giả chủ yếu tập trung vào quá trình tái cơ cấu và phát triển thị trường vốn, các công ty trong lĩnh vực chứng khoán, bảo hiểm ở Hàn Quốc sau khủng hoảng, mà chưa tập trung phân tích về các khía cạnh tái cơ cấu hệ thống ngân hàng của nước này.
Nghiên cứu định lượng của Nguyễn Đức Thành và Vũ Minh Long (2014) “Đánh giá hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam bằng bộ chỉ số lành mạnh tài chính (FSIs)” đánh giá tác động của quá trình hội nhập và tái cấu trúc hệ thống ngân hàng (theo Đề án 254) ảnh hưởng như thế nào đến hệ thống ngần hàng Việt Nam giai đoạn 2008-2012 dựa trên 5 yếu tố: độ an toàn vốn, chất lượng tài sản, thu nhập và lợi nhuận, thanh toán, đội nhạy cảm với rủi ro thị trường [29]. Tuy nhiên, nghiên cứu đã không thể tính và phân tích được các chỉ số FSIs quan trọng do thiếu số liệu và số liệu không tương thích với thông lệ quốc tế (như: độ an toàn vốn, nợ xấu trên tổng nợ, tính thanh khoản và độ nhạy cảm với rủi ro…), đồng thời mới dung lại ở phân tích về các chỉ số FSIs trong quá khứ, cũng như chưa lượng hóa được mối quan hệ với các yếu tố vĩ mô khác như tăng trưởng, cán cân vãng lai, dự trữ ngoại hối, lạm phát, lãi suất, tỷ giá…
Nghiên cứu của Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright do Vũ Thành Tự Anh chủ biên (2013) “Sở hữu chống chéo giữa các tổ chức tín dụng và tập đoàn kinh tế tại Việt Nam: đánh giá và các khuyến nghị thể chế” đã áp dụng khung phân tích dự trên các lý thuyết về “ủy quyền – thừa hành” và nghiên cứu các trường hợp về sở hữu chéo cụ thể đã được công bố để chỉ ra những hạn chế trong hệ thống các quy định hiện nay liên quan đến vấn đề sơ hữu chéo giữa ngân hàng
– ngân hàng và ngân hàng – doanh nghiệp, từ đó rút ra những khuyến nghị chính sách, trong đó chủ yếu tập trung vào vấn đề tư nhân hóa hệ thống ngân hàng và vai trò giám sát của thị trường [2]. Tuy nhiên, khung phân tích của nghiên cứu
này chủ yếu dựa trên các lý thuyết của kinh tế học cổ điển, mà chưa tính đến những thất bại của thị trường hiện đại một cách thỏa đáng.
Nghiên cứu của Đinh Thanh Tâm và Nguyễn Thế Tùng (2015) về “Xử lý nợ xấu theo mô hình công ty quản lý tái sản: từ kinh nghiệm quốc tế tới thực tiễn tại Việt Nam” tập trung phân tích mô hình xử lý nợ xấu của Công ty Quản lý tài sản các tổ chức tín dụng (VAMC), so sánh hoạt động của VAMC với DATC, qua đó đề xuất các giải pháp kết hợp hoạt động của VAMC và DATC, cải thiện khả năng hấp thụ vốn và hiệu quả sử dụng nguồn vốn nợ của hệ thống doanh nghiệp, hình thành một thị trường mua bán nợ tập trung, chuyên nghiệp, góp phần xử lý nợ xấu triệt để [37]. Tuy nhiên, khi tham khảo kinh nghiệm quốc tế, nghiên cứu chủ yếu tập trung phân tích kinh nghiệm của Trung Quốc về việc các công ty quản lý tài sản (AMCs) đồng thời trực thuộc cả Bộ Tài chính và NHTW để xử lý trước hết là các NHTM nhà nước, sau đó là hệ thống ngân hàng của nước này, mà chưa tham khảo thỏa đáng đến các quốc gia có mô hình xử lý nợ xấu tập trung như Hàn Quốc, In-đô-nê-xia, Ma-lai-xia… và vai trò quan trọng của cơ quan bảo hiểm tiền gửi trong quá trình xử lý các ngân hàng yếu kém.
1.4. Khung phân tích quá trình tái cơ cấu hệ thống ngân hàng
Trước khi đi sâu phân tích quá trình tái có cấu hệ thống ngân hàng của một quốc gia, gồm: đối tượng tái cơ cấu, mô hình tái cơ cấu được lựa chọn, các giải pháp thực hiện tái có cấu, những thành tựu và hạn chế của quá trính tái cơ cấu…, có 03 nội dung quan trọng cần xác định rõ là: (a) Cơ quan thực hiện tái cơ cấu, (b) Nguồn lực tài chính để thực hiện tái cơ cấu; (c) Các tiêu chí đánh giá hiệu quả của quá trình tái cơ cấu hệ thống ngân hàng.
1.4.1. Cơ quan thực hiện tái cơ cấu:
Vấn đề cơ quan chủ trì thực hiện quá trình tái cấu trúc hệ thống ngân hàng thường mang yếu tố quyết định đến hiệu quả của quá trình này (IMF, 2004). Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, NHTW thường không tham gia lãnh đạo trực tiếp quá trình tái cơ cấu mà chỉ đóng vai trò một bên tham gia quan trọng vào quá trình này và nhiệm vụ chủ trì quá trình tái cơ cấu thường được giao cho một cơ quan/tổ chức được thành lập mới với đủ thẩm quyền pháp lý và tính khách quan để tổ chức thực hiện hiệu quả quá trình tái cơ cấu này (như tại Indonesia và Thái Lan). Khảo sát của Hawkins (1999) về tái cấu trúc hệ thống ngân hàng ở 24 quốc
gia cũng cho thấy nếu NHTW chịu trách nhiệm tái cấu trúc, thì hệ thống ngân hàng thay đổi chậm và như vậy tái cấu trúc hệ thống ngân hàng khó đạt hiệu quả cao do: (i) Kế hoạch tái cấu trúc các NHTM thiếu tính minh bạch và phản biện – thường do NHTW độc quyền xây dựng trước khi được công bố công khai; (ii) Thiếu sự kết hợp chặt chẽ với các cơ quan có liên quan (như với Bộ Tài chính và các cơ quan giám sát liên quan); (iii) Chi phí tái cấu trúc NHTM không xác định được chính xác trên cơ sở thị trường; (iv) Rủi ro từ mâu thuẫn lợi ích hoặc nảy sinh vấn đề lợi ích nhóm.
1.4.2. Nguồn lực tài chính để thực hiện tái cơ cấu:
Nguồn lực tài chính thực hiện tái cơ cấu hệ thống ngân hàng bao gồm: nguồn tái cấp vốn cho các NHTM yếu kém về thanh khoản, nguồn xóa nợ và xử lý nợ xấu, chi phí xử lý và giải quyết các NHTM và TCTD phi ngân hàng bị đổ vỡ và các chi phí có liên quan cho việc thực hiện các giải pháp tái cơ cấu của chính các NHTM (như: chi phí đánh giá chất lượng tài sản, chi phí sắp xếp lại, giải thể các NHTM thua lỗ, phá sản, chi phí bồi thường cho người gửi tiền, chi phí nâng cao năng lực quản trị rủi ro, năng lực quản trị doanh nghiệp của các NHTM, chi phí thoái vốn, rút vốn khỏi các lĩnh vực đầu tư phi tài chính…).
Theo thông lệ quốc tế, nguồn tài chính cho việc xử lý các NHTM yếu kém thường được xác định bao gồm: nguồn của các NHTM khác mua lại, kể cả việc tăng room cho nhà đầu tư nước ngoài, nguồn từ thanh lý tài sản của các NHTM là đối tượng phải xử lý, nguồn từ chính chủ các NHTM phải đáp ứng, nguồn từ phát hành trái phiếu chính phủ qua Bảo hiểm tiền gửi, dùng tiền để Chính phủ quốc hữu hóa các NHTM yếu kém, vực dậy, sau đó bán lại cho tư nhân, thậm chí còn có lãi. Tuy nhiên, trong trường hợp Chính phủ bỏ tiền ra để hỗ trợ các NHTM yếu kém, Chính phủ sẽ đưa ra các quy định để đảm bảo hiệu quả của quá trình tái cấu trúc cũng như giảm thiểu tối đa rủi ro đạo đức trong quá trình thực hiện. Các NHTM yếu kém bị xử lý được yêu cầu phải cắt giảm về qui mô, nhân viên, chi nhánh, cải thiện năng suất và hiệu quả thì mới được hỗ trợ của Chính phủ trong quá trình tái cấu trúc. Nếu các NHTM này tiếp tục thua lỗ và yếu kém trong quản lý thì bị buộc phải giảm vốn và thay thế lãnh đạo.
1.4.3. Tiêu chí đánh giá hiệu quả quá trình tái cơ cấu:
Như vậy, mục tiêu chung của tái cơ cấu hệ thống ngân hàng nói chung, theo Claudia Dziobek và Ceyla Pazarbasioglu (1998) [60] “nhằm đạt được 3 mục tiêu:
i) Củng cố hiệu quả hoạt động của hệ thống ngân hàng thông qua cải thiện khả năng sinh lời; ii) Cải thiện năng lực thực hiện chức năng trung gian tài chính của hệ thống ngân hàng giữa người đi vay và người cho vay; và iii) Khôi phục niềm tin của công chúng”. Tuy nhiên, tùy bối cảnh tái cơ cấu của NHTM ở các quốc gia khác nhau, thì mục tiêu tái cớ cấu cụ thể là khác nhau. Nguyễn Hồng Sơn (2012)
[27] tổng hợp nghiên cứu quốc tế của Barth J.R và Yago G. (2003) [50] về các tiêu chí đánh giá hiệu quả tái cơ cấu ngân hàng theo thông lệ quốc tế và đặc điểm hệ thống ngân hàng ở các nước đang phát triển, đã xác định 06 tiêu chí cụ thể để đánh giá kết quả tái cơ cấu hệ thống ngân hàng, gồm: (i) tăng trưởng dư nợ tín dụng; (ii) tăng trưởng vốn chủ sở hữu; (iii) tỷ lệ nợ xấu; (iv) tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản; (v) tỷ lệ chênh lệch lãi suất và chi phí hoạt động trên thu nhập từ lãi; (vi) khả năng sinh lời trên tổng tài sản (ROA) và khả năng sinh lời trên vốn chủ sở hữu (ROE); (vii) thanh khoản của hệ thống và các nhóm/ngân hàng cụ thể.
- Tăng trưởng dư nợ tín dụng: theo IMF (2005), chỉ số này là lành mạnh khi ở mức tương đương 1 – 1,5 lần mức tăng trưởng của nền kinh tế, nếu chỉ số này quá cáo (do nền kinh tế tăng trưởng nóng, nhu cầu tín dụng cho các hoạt động đầu tư/tiêu dùng cao) hoặc quá thấp (do các hoạt động kinh tế suy giảm, nhu cầu tín dụng giảm). Tốc độ tăng trưởng tín dụng cần được xét riêng cho từng nhóm NHTM cụ thể, tương ứng với năng lực kinh doanh/tài chính để đánh giá sự phù hợp và nguy cơ tiềm ẩn nợ xấu [9].
- Tăng trưởng vốn chủ sở hữu: Berger và cộng sự (1998) [43] nghiên cứu thực nghiệm 42 ngân hàng tại châu Á cho kết quả, vốn chủ sở hữu tác động ngược chiều đến rủi ro tín dụng thông qua biến tỷ lệ dự phòng rủi ro tín dụng; Shrieves và Dahl (1992); Jacques & Nigro (1997), mối quan hệ giữa vốn và rủi ro tín dụng là cùng chiều, nghĩa là khi rủi ro gia tăng thì vốn ngân hàng cũng gia tăng, là do công tác giám sát hiệu quả của thị trường. Tuy nhiên, tăng trưởng vốn chủ sở hữu của cả hệ thống không thể phản ảnh được tình trạng lành mạnh của hệ thống ngân hàng vì có những ngân hàng yếu kém nếu xử lý hết nợ xấu thì vốn chủ sở hữu sẽ âm.
- Tỷ lệ nợ xấu (tổng nợ xấu/tổng dư nợ tín dụng): cần được tính theo thông lệ quốc tế, tuy nhiên, tại một số nền kinh tế chuyển đổi (như Viêt Nam, Trung Quốc…) đang có cách tính nợ xấu riêng, với kết quả thường thấp hơn nhiều so
với thông lệ quốc tế gây khó khăn trong quá trình nghiên cứu, đánh giá. Theo thông lệ quốc tế, một trong những dấu hiệu cảnh báo khủng hoảng tài chính và yêu cầu tái cơ cấu cấp bách là tỷ lệ nợ xấu cao. Tuy nhiên, quan trọng hơn con số nợ xấu là cơ cấu nợ xấu và các khoản nợ này đã và sẽ được xử lý như thế nào.
- Tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản: là một chỉ tiêu được sử dụng để đánh giá độ lành mạnh tài chính (FSI) của hệ thống ngân hàng theo khuyến cáo của IMF (Nguyễn Hồng Sơn, 2012) [27], tỷ lệ này gia tăng thể hiện những thay đổi tích cực của quá trình tái cơ cấu ngân hàng, cụ thể là trong việc bảo đảm an toàn tài chính thông qua giảm bớt tỷ lệ đòn bẩy tài chính.
- Hiệu quả hoạt động của ngân hàng: thể hiện qua 2 chỉ tiêu chênh lệch lãi suất (NIM) và chi phí hoạt động trên thu nhập từ lãi. Khi NIM có xu hướng giảm và tỷ lệ chi phí hoạt động trên thu nhập từ lãi tăng chứng tỏ cả hoạt động cho vay lẫn hoạt động huy động của ngân hàng đều đang rất khó khăn, và ngược lại. Sau tái cơ cấu, hai chỉ số này của các NHTM thường chưa được cải thiện ngay do vẫn còn sức ép rất lớn từ các khoản vay tiềm ẩn rủi ro phải trích lập nợ xấu, trong khi sức ép phải tăng trưởng tín dụng để gia tăng đầu ra, dẫn đến con số thực về tăng trưởng tín dụng của một số NHTM cao hơn nhiều so với qui định, từ đó dẫn đến rủi ro kép về nợ xấu lại gia tăng.
- Khả năng sinh lời (ROA, ROE): hai chỉ số này có xu hướng giảm trước và trong quá trình tái cơ cấu do nợ xấu gia tăng mạnh kéo theo chi phí trích lập dự phòng rủi ro tăng, trong khi đó, tăng trưởng tín dụng một mặt bị NHTW khống chế, kiểm soát đối với các NHTM yếu và trung bình, còn các NHTM khá và mạnh cũng khó cho vay ra vì tác động của khủng hoảng và suy thoái kinh tế và phục hồi trở lại và đạt mức cao hơn so với trước khi thực hiện tái có cấu, cho thấy quá trình tái cơ cấu đã hoàn tất và có hiệu quả, đồng thời cũng phản ánh sự phục hồi của thị trường ngân hàng nói chung.
- Thanh khoản: kinh nghiệm quốc tế cho thấy, rủi ro thanh khoản của hệ thống ngân hàng thường không được quan tâm đúng mức cho đến khi khủng hoảng diễn ra (Claudia và Ceyla, 1998) [60]. Khả năng thanh khoản của hệ thống ngân hàng cần được cải thiện rõ rệt qua quá trình tái cơ cấu NHTM là được xem ra chỉ số cơ bản và quan trọng để đánh giá hiệu quả tái cơ cấu.