Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Cải Cách Hệ Thống Ngân Hàng Của Một Quốc Gia


và hiệu quả thì mới được hỗ trợ của Chính phủ trong quá trình tái cấu trúc. Nếu các NHTM này tiếp tục thua lỗ và yếu kém trong quản lý thì bị buộc phải giảm vốn và thay thế lãnh đạo.

2.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến cải cách hệ thống ngân hàng của một quốc gia

Các nhân tố ảnh hưởng đến cải cách hệ thống ngân hàng của một quốc gia có thể được chia làm hai nhóm: Nhóm nhân tố khách quan và nhóm nhân tố chủ quan, tùy theo điều kiện cụ thể của hệ thống ngân hàng của từng quốc gia mà hai nhóm nhân tố này có những ảnh hưởng khác nhau đến hiệu quả hoạt động cải cách hệ thống ngân hàng của quốc gia đó.

(1) Nhóm nhân tố khách quan

- Môi trường về kinh tế, chính trị và xã hội trong và ngoài nước:

HTNH là trung gian tài chính làm cầu nối giữa khu vực tiết kiệm với khu vực đầu tư của nền kinh tế, do vậy những biến động của môi trường kinh tế, chính trị và xã hội có những ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động của các ngân hàng. Nếu môi trường kinh tế, chính trị và xã hội ổn định sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của HTNH, vì đây cũng là điều kiện làm cho quá trình sản xuất của nền kinh tế được diễn ra bình thường, đảm bảo khả năng hấp thụ vốn và hoàn trả vốn của các doanh nghiệp trong nền kinh tế. Khi nền kinh tế có tăng trưởng cao và ổn định, các khu vực trong nền kinh tế đều có nhu cầu mở rộng hoạt động sản xuất, kinh doanh do đó nhu cầu vay vốn tăng làm cho các ngân hàng thương mại dễ dàng mở rộng hoạt động tín dụng của mình đồng thời khả năng nợ xấu có thể giảm vì năng lực tài chính của các doanh nghiệp cũng được nâng cao. Ngược lại, khi môi trường kinh tế, chính trị và xã hội trở nên bất ổn thì lại là những nhân tố bất lợi cho hoạt động của HTNH như nhu cầu vay vốn giảm; nguy cơ nợ quá hạn, nợ xấu gia tăng làm giảm hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương mại.

Hơn nữa, hiện nay quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đang diễn ra mạnh mẽ trên thế giới. Các nền kinh tế của các nước trên thế giới ngày càng phụ thuộc vào nhau, luồng vốn quốc tế đã và đang dồn vào khu vực Châu Á mạnh mẽ, điều này đang tạo ra nhiều cơ hội cho Việt Nam nói chung và hệ thống ngân hàng nói riêng nhiều cơ hội mới như có thể tranh thủ được các nguồn vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý từ các nền kinh tế phát triển...tuy nhiên, bên cạnh đó ngành ngân hàng cũng phải đối mặt với nhiều thách thức từ quá trình hội nhập, như phải cạnh tranh với những tập đoàn tài chính đầy tiềm lực (về vốn, công nghệ, năng lực quản lý...). Trong khi thực tế hiện nay cho thấy các ngân hàng thương mại Việt Nam còn yếu về


mọi mặt từ năng lực tài chính, kinh nghiệm quản trị ngân hàng, công nghệ đến nguồn nhân lực.

Ngoài ra, với quá trình hội nhập kinh tế quốc ngày càng sâu rộng, thì sự biến động của tình hình kinh tế, chính trị và xã hội của các nước trên thế giới mà nhất là các bạn hàng của Việt Nam cũng có những ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả hoạt động cải cách hệ thống ngân hàng.

- Môi trường pháp lý

Môi trường pháp lý bao gồm tính đồng bộ và đầy đủ của hệ thống luật, các văn bản dưới luật, việc chấp hành luật và trình độ dân trí.

Thực tiễn cho thấy sự phát triển của các nền kinh tế thị trường trên thế giới hàng trăm năm qua đã minh chứng cho tầm quan trọng của hệ thống luật trong việc điều hành nền kinh tế thị trường. Nếu hệ thống luật pháp được xây dựng không phù hợp với yêu cầu phát triển của nền kinh tế thì sẽ là một rào cản lớn cho quá trình phát triển kinh tế. đối với các quốc gia có hệ thống luật còn thiếu và chưa đầy đủ, đồng bộ sẽ thực sự là một trở ngại đối với hoạt động cải cách của HTNH.

(2). Nhóm nhân tố chủ quan

Nhóm nhân tố chủ quan được bàn đến chính là các nhân tố bên trong hệ thống ngân hàng của các quốc gia, bao gồm cả tư duy nhận thức của các nhà lãnh đạo và các nhân tố thuộc về bản thân hệ thống ngân hàng của mỗi quốc gia như các nhân tố về năng lực tài chính, khả năng quản trị điều hành, ứng dụng tiến bộ công nghệ, trình độ và chất lượng của lao động...

- Năng lực tài chính của HTNH thường được biểu hiện trước hết là qua khả năng mở rộng nguồn vốn chủ sở hữu, vì vốn chủ sở hữu thể hiện sức mạnh tài chính của một ngân hàng. Tiềm lực về vốn chủ sở hữu ảnh hưởng tới quy mô kinh doanh của ngân hàng như: khả năng huy động và cho vay vốn, khả năng đầu tư tài chính và trình độ trang bị công nghệ. Thứ hai, khả năng sinh lời cũng là một nhân tố phản ánh về năng lực tài chính của HTNH vì nó thể hiện tính hiệu quả của một đồng vốn kinh doanh. Thứ ba là khả năng phòng ngừa và chống đỡ rủi ro của HTNH cũng là nhân tố phản ánh năng lực tài chính. Nếu nợ xấu tăng thì dự phòng rủi ro cũng phải tăng để bù đắp rủi ro, có nghĩa là khả năng tài chính cho phép sử dụng để bù đắp tổn thất có thể xảy ra. Ngược lại, nếu nợ xấu tăng nhưng dự phòng rủi ro không đủ để bù đắp có nghĩa là tình trạng tài chính xấu và năng lực tài chính bù đắp cho các khoản chi phí này bị thu hẹp.


- Năng lực quản trị, điều hành là nhân tố tiếp theo ảnh hưởng đến hiệu quả cải cách HTNH của các nước. Năng lực quản trị điều hành trước hết là phụ thuộc vào cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý, trình độ lao động và tính hữu hiệu của cơ chế điều hành để có thể ứng phó tốt trước những diễn biến của thị trường. Tiếp theo năng lực quản trị, điều hành còn có thể được phản ánh bằng khả năng giảm thiểu chi phí hoạt động, nâng cao năng suất sử dụng các đầu vào để có thể tạo ra được một tập hợp đầu ra cực đại.

- Khả năng ứng dụng tiến bộ công nghệ: Chính là phản ánh năng lực công nghệ thông tin của HTNH. Trước sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ và ứng dụng sâu rộng của nó vào cuộc sống xã hội như ngày nay, thì ngành ngân hàng khó có thể duy trì khả năng cạnh tranh của mình nếu vẫn cung ứng các dịch vụ truyền thống. Năng lực công nghệ của HTNH thể hiện khả năng trang bị công nghệ mới gồm thiết bị và con người, tính liên kết công nghệ giữa các ngân hàng và tích độc đáo về công nghệ của mỗi ngân hàng.

- Trình độ, chất lượng của người lao động: Nhân tố con người là yếu tố quyết định quan trọng đến sự thành bại trong bất kỳ hoạt động nào của HTNH. Xã hội càng phát triển thì càng đòi hỏi các ngân hàng phải cung cấp nhiều dịch vụ mới và có chất lượng. Chính điều này đòi hỏi chất lượng của nguồn nhân lực cũng phải được nâng cao để đáp ứng kịp thời đối với những thay đổi của thị trường, xã hội. Việc sử dụng nhân lực có đạo đức nghề nghiệp, giỏi về chuyên môn sẽ giúp cho ngân hàng tạo lập được những khách hàng trung thành, ngăn ngừa được những rủi ro có thể xảy ra trong các hoạt động kinh doanh, đầu tư và đây cũng là nhân tố giúp các ngân hàng giảm thiểu được các chi phí hoạt động. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển nguồn nhân lực luôn phải chú trọng việc gắn phát triển nhân lực với công nghệ mới.

2.5. Tiêu chí đánh giá hiệu quả quá trình cải cách

Mục tiêu chung của cải cách, tái cơ cấu hệ thống ngân hàng nói chung, theo Claudia Dziobek và Ceyla Pazarbasioglu (1998) “nhằm đạt được 3 mục tiêu: (i) Củng cố hiệu quả hoạt động của hệ thống ngân hàng thông qua cải thiện khả năng sinh lời; (ii) Cải thiện năng lực thực hiện chức năng trung gian tài chính của hệ thống ngân hàng giữa người đi vay và người cho vay; và (iii) Khôi phục niềm tin của công chúng”. Tuy nhiên, tùy bối cảnh cải cách, tái cơ cấu của NHTM ở các quốc gia khác nhau, thì mục tiêu cải cách, tái cơ cấu cụ thể là khác nhau. Nguyễn Hồng Sơn (2012) tổng hợp nghiên cứu quốc tế của Barth J.R và Yago G. (2003) về các tiêu chí đánh giá hiệu quả tái cơ cấu ngân hàng theo thông lệ quốc tế và đặc điểm hệ thống ngân


hàng ở các nước đang phát triển, đã xác định 07 tiêu chí cụ thể để đánh giá kết quả tái cơ cấu hệ thống ngân hàng, gồm: (i) Tăng trưởng dư nợ tín dụng; (ii) tăng trưởng vốn chủ sở hữu; (iii) tỷ lệ nợ xấu; (iv) tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản; (v) Hiệu quả hoạt động của ngân hàng; (vi) khả năng sinh lời trên tổng tài sản (ROA) và khả năng sinh lời trên vốn chủ sở hữu (ROE); (vii) thanh khoản của hệ thống và các nhóm/ngân hàng cụ thể.

- Tăng trưởng dư nợ tín dụng: Theo IMF (2005), chỉ số này là lành mạnh khi ở mức tương đương 1 – 1,5 lần mức tăng trưởng của nền kinh tế, nếu chỉ số này quá cao (do nền kinh tế tăng trưởng nóng, nhu cầu tín dụng cho các hoạt động đầu tư/tiêu dùng cao) hoặc quá thấp (do các hoạt động kinh tế suy giảm, nhu cầu tín dụng giảm). Tốc độ tăng trưởng tín dụng cần được xét riêng cho từng nhóm NHTM cụ thể, tương ứng với năng lực kinh doanh/tài chính để đánh giá sự phù hợp và nguy cơ tiềm ẩn nợ xấu.

- Tăng trưởng vốn chủ sở hữu: Berger và cộng sự (1998) nghiên cứu thực nghiệm 42 ngân hàng tại châu Á cho kết quả, vốn chủ sở hữu tác động ngược chiều đến rủi ro tín dụng thông qua biến tỷ lệ dự phòng rủi ro tín dụng; Shrieves và Dahl (1992); Jacques & Nigro (1997), mối quan hệ giữa vốn và rủi ro tín dụng là cùng chiều, nghĩa là khi rủi ro gia tăng thì vốn ngân hàng cũng gia tăng, là do công tác giám sát hiệu quả của thị trường. Tuy nhiên, tăng trưởng vốn chủ sở hữu của cả hệ thống không thể phản ảnh được tình trạng lành mạnh của hệ thống ngân hàng vì có những ngân hàng yếu kém nếu xử lý hết nợ xấu thì vốn chủ sở hữu sẽ âm.

- Tỷ lệ nợ xấu (tổng nợ xấu/tổng dư nợ tín dụng): Cần được tính theo thông lệ quốc tế, tuy nhiên, tại một số nền kinh tế chuyển đổi (như Viêt Nam, Trung Quốc…) đang có cách tính nợ xấu riêng, với kết quả thường thấp hơn nhiều so với thông lệ quốc tế gây khó khăn trong quá trình nghiên cứu, đánh giá. Theo thông lệ quốc tế, một trong những dấu hiệu cảnh báo khủng hoảng tài chính và yêu cầu tái cơ cấu cấp bách là tỷ lệ nợ xấu cao. Tuy nhiên, quan trọng hơn con số nợ xấu là cơ cấu nợ xấu và các khoản nợ này đã và sẽ được xử lý như thế nào.

- Tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản: Là một chỉ tiêu được sử dụng để đánh giá độ lành mạnh tài chính (FSI) của hệ thống ngân hàng theo khuyến cáo của IMF (Nguyễn Hồng Sơn, 2012), tỷ lệ này gia tăng thể hiện những thay đổi tích cực của quá trình tái cơ cấu ngân hàng, cụ thể là trong việc bảo đảm an toàn tài chính thông qua giảm bớt tỷ lệ đòn bẩy tài chính.


- Hiệu quả hoạt động của ngân hàng: Thể hiện qua 2 chỉ tiêu chênh lệch lãi suất (NIM) và chi phí hoạt động trên thu nhập từ lãi. Khi NIM có xu hướng giảm và tỷ lệ chi phí hoạt động trên thu nhập từ lãi tăng chứng tỏ cả hoạt động cho vay lẫn hoạt động huy động của ngân hàng đều đang rất khó khăn, và ngược lại. Sau tái cơ cấu, hai chỉ số này của các NHTM thường chưa được cải thiện ngay do vẫn còn sức ép rất lớn từ các khoản vay tiềm ẩn rủi ro phải trích lập nợ xấu, trong khi sức ép phải tăng trưởng tín dụng để gia tăng đầu ra, dẫn đến con số thực về tăng trưởng tín dụng của một số NHTM cao hơn nhiều so với qui định, từ đó dẫn đến rủi ro kép về nợ xấu lại gia tăng.

- Khả năng sinh lời (ROA, ROE): Hai chỉ số này có xu hướng giảm trước và trong quá trình tái cơ cấu do nợ xấu gia tăng mạnh kéo theo chi phí trích lập dự phòng rủi ro tăng, trong khi đó, tăng trưởng tín dụng bị NHTW khống chế, kiểm soát đối với các NHTM yếu và trung bình, còn các NHTM khá và mạnh cũng khó cho vay ra vì tác động của khủng hoảng và suy thoái kinh tế và phục hồi trở lại và đạt mức cao hơn so với trước khi thực hiện tái có cấu, cho thấy quá trình tái cơ cấu đã hoàn tất và có hiệu quả, đồng thời cũng phản ánh sự phục hồi của thị trường ngân hàng nói chung.

- Thanh khoản: Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, rủi ro thanh khoản của hệ thống ngân hàng thường không được quan tâm đúng mức cho đến khi khủng hoảng diễn ra (Claudia và Ceyla, 1998). Khả năng thanh khoản của hệ thống ngân hàng cần được cải thiện rõ rệt qua quá trình tái cơ cấu NHTM được xem là chỉ số cơ bản và quan trọng để đánh giá hiệu quả tái cơ cấu.

Ngoài ra, các cách thức, biện pháp được sử dụng theo thông lệ quốc tế để đánh giá hiệu quả cải cách, tái cơ cấu như: So sánh giữa mục tiêu và kết quả, so sánh giữa chi phí và lợi ích của tái cơ cấu, đánh giá mức độ thực hiện các phương án phục hồi của các NHTM yếu kém, đánh giá mức độ phục hồi sau tái cơ cấu/sau sát nhập của các NHTM định dạng mô hình, cấu trúc hệ thống NHTM sau tái cơ cấu, mức độ cải thiện năng lực tài chính và quản trị của các NHTM sau tái cơ cấu… cũng cần được phân tích, đánh giá trong quá trình nghiên cứu.

2.6. Nội dung, các bước thực hiện cải cách hệ thống ngân hàng

Có thể nói, công cuộc cải cách hệ thống ngân hàng thành công đã tạo ra một môi trường thuận lợi thúc đẩy sự phát triển hệ thống ngân hàng nói riêng và đóng góp vào sự phát triển kinh tế nói chung của các nước. Mỗi quốc gia với đặc điểm kinh tế, chính trị, xã hội riêng tạo ra những màu sắc tái cơ cấu riêng của chính mình nhưng tựu chung thực


tiễn kinh nghiệm cải cách ngân hàng cho thấy, quá trình cải cách, tái cơ cấu hệ thống ngân hàng ở hầu hết các nước đều thực hiện các bước cơ bản là:

2.6.1. Tổ chức, sắp xếp lại bộ máy, hệ thống

Các hoạt động cải cách hệ thống ngân hàng chỉ có thể đem lại hiệu quả tích cực khi được đặt trong một khuôn khổ pháp lý ổn định và tương đối hoàn thiện, do đó, tất cả các nước trên thế giới khi tiến hành cải cách hệ thống ngân hàng đều tiến hành rà soát lại các văn bản pháp luật, xây dựng các phương án can thiệp của Chính phủ và NHTW trong các tình huống khác nhau, để đảm bảo rằng chúng không vi phạm các luật lệ đã ban hành trước đây. Việc này rất quan trọng bởi nó cho thấy hành vi can thiệp của Chính phủ và NHTW là khách quan, bình đẳng và minh bạch, vì lợi ích chung của nền kinh tế chứ không phải vì động cơ nào khác. Chính phủ cần đề ra các tiêu chí về một ngân hàng hoạt động hiệu quả và phát triển bền vững hướng tới thông lệ tốt nhất như: Vốn điều lệ tối thiểu; điều kiện cần và đủ để thành lập ngân hàng; phạm vi và lĩnh vực kinh doanh ứng với qui mô; hạ tầng công nghệ tối thiểu phải có; việc phân loại nợ theo thời gian và chất lượng nợ; tiêu chí về năng lực hoạt động; năng lực cạnh tranh; vấn đề minh bạch thông tin và kỷ luật thị trường; căn cứ cào các tiêu chí này để xây dựng một quy trình và xác định mức độ can thiệp của Nhà nước cho từng trường hợp cụ thể. Điều này sẽ tạo cơ sở thúc đẩy các ngân hàng hoạt động hiệu quả và ngày càng cạnh tranh lành mạnh hơn.

Đánh giá và phân loại ngân hàng theo tiêu chuẩn quốc tế:

Trong một thế giới toàn cầu hóa về kinh tế đòi hỏi hệ thống ngân hàng của các quốc gia phải có những quy định, hoạt động phù hợp với quốc tế để tránh những rủi ro cho hệ thống tài chính của quốc gia đó, đồng thời tránh gây ra những rủi ro nguy hiểm cho hệ thống tài chính toàn cầu. Trước khi tiến hành cải cách, các nước đều áp dụng tiêu chuẩn quốc tế để phân loại ngân hàng nhằm phân cấp, đánh giá năng lực của các ngân hàng, phân loại và xác định tỷ lệ nợ xấu, trên cơ sở đó, đưa ra những biện pháp cụ thể đối với khả năng hoạt động kinh doanh của từng nhóm ngân hàng. Chẳng hạn như, tại Hàn Quốc, trong quá trình cải cách, căn cứ vào tỷ lệ an toàn vốn, Hàn Quốc đã phân loại các ngân hàng thành 3 nhóm: “chấp thuận”, “chấp thuận có điều kiện” và “không chấp thuận”. Loại “chấp thuận” được khuyến khích sáp nhập với nhau để trở thành các ngân hàng có quy mô lớn. Loại “chấp thuận có điều kiện” phải đệ trình kế hoạch quản lý mới như thuê giám đốc từ bên ngoài, thu hút vốn đầu tư nước ngoài, cắt giảm chi tiêu, sa thải nhân công, giảm lượng chi nhánh… Loại “không chấp thuận” phải sáp nhập với các ngân hàng lành mạnh hơn.


2.6.2. Sáp nhập và giải thể ngân hàng yếu kém

Để tạo điều kiện tiền đề cho quá trình mua bán, sát nhập giữa các NHTM, NHTW các nước thường tiến hành rà soát và phân loại các ngân hàng yếu kém theo bộ tiêu chuẩn phân loại hoạt động do NHTW xây dựng, căn cứ trên đặc điểm của thị trường tài chính nước đó. Theo đó, những ngân hàng không đáp ứng đủ các tiêu chuẩn an toàn bị buộc chấm dứt hoạt động để ngân hàng có tình hình tài chính tốt hơn mua lại. Với những ngân hàng đang gặp khó khăn nhưng có khả năng phục hồi sẽ được yêu cầu sáp nhập, hợp nhất với nhau. Qua đó, số lượng ngân hàng sau tái cấu trúc giảm xuống, quy mô vốn, chất lượng tài sản, năng lực cạnh tranh và lợi nhuận được cải thiện. Cần lưu ý rằng, trong bối cảnh khủng hoảng, quá trình mua bán, sát nhập giữa các NHTM không hoàn toàn mang tính chất tự nguyện mà nằm trong kế hoạch tái cấu trúc ngân hàng do NHTW hoặc Chính phủ tiến hành tại nhiều quốc gia trên thế giới, xuất phát từ ý chí chủ quan của các nhà hoạch định chính sách nhằm giải cứu các ngân hàng yếu kém, cứu hệ thống ngân hàng khỏi đổ vỡ.

Trong cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á (1997-98), để đối phó với nguy cơ sụp đổ của hệ thống ngân hàng, các nền kinh tế trong khu vực đã đẩy mạnh áp dụng biện pháp này, cụ thể như sau:

Bảng 2.1: So sánh quá trình mua lại, hợp nhất, sáp nhập của một số nước

châu Á nhằm ứng phó với cuộc khủng hoảng tài chính 1997 -1998



Đóng cửa

Nhà nước mua

Sáp nhập


In-đô-nê-xi-a

64 ngân hàng (18%)

12 NHTM (20%)

4 trong số 7 ngân hàng nhà nước được sáp nhập thành 1 NHTM

(54%)


Hàn Quốc

5 NHTM,17 NH bán buôn và hơn

100 tổ chức tài

chính phi ngân hàng (15%)

4 NHTM (25%)

9 NHTM và 2 NHNT

để thành lập 4 NHTM mới (15%)


Ma-lai-xi-a

Không

1 NHTM, 1 NH bán

buôn và 3 công ty tài chính đặt dưới sự

15 vụ sáp nhập giữa

các công ty tài chính và NHTM (6%)

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 130 trang tài liệu này.

Cải cách hệ thống ngân hàng nhật bản giai đoạn 1990 – 2005 và một số hàm ý cho Việt Nam - 5




kiểm soát của

NHTW (12%)



Thái Lan

57 công ty tài chính, 1 NHTM (2%)

7 NHTM, 12 Công ty tài chính (2,2%)

5 NHTM và 13 công ty tài chính được sáp nhập thành 3 ngân

hàng (20%)

Chú thích: Số liệu trong ngoặc là tỷ lệ % so với tài sản trong khu vực tài chính. Nguồn: World Bank (1999), Global Economic Prospects and the Developing Countries, 2000, Table 3.5.

Bảng 2.2. Thay đổi số lượng ngân hàng trước và sau khủng hoảng tài chính 1997 -1998

Quốc gia

Loại hình ngân hàng

Trước khủng hoảng

Sau khủng hoảng

Hàn Quốc

Công ty tài chính

33

22 (t6/2001)

NHTM

30

4 (t6/2001)

Indonesia

Ngân hàng quốc doanh

07

5 (t12/2001)

Ngân hàng tư nhân

160

80 (t12/2001)

Malaysia

NHTM

37

25 (t12/2001)

Công ty tài chính

40

12 (t12/2001)

Thái Lan

NHTM

15

13 (t7/2002)

Công ty tài chính

91

19 (t7/2002)

Nguồn: “Đông Á: Con đường dẫn đến phục hồi năm 1999” của Ngân hàng Thế giới

Trong bảng trên cho thấy sự thay đổi số lượng các ngân hàng trước và sau khủng hoảng tài chính châu Á (1997-98) của một số nước trong khu vực. Có thể thấy, số lượng ngân hàng giảm mạnh ở Thái Lan (72 NHTM và công ty tài chính), sau đó là Malaysia (40 NHTM và công ty tài chính), và mức giảm nhẹ nhất ở Hàn Quốc (37 NHTM và công ty tài chính).

2.6.3. Cơ cấu lại vốn chủ sở hữu

Vốn chủ sở hữu của các ngân hàng sau khi trích lập dự phòng đầy đủ cho các khoản nợ và giảm giá tài sản là cơ sở để đưa ra các biện pháp cụ thể như yêu cầu các ngân hàng tăng vốn, cho vay thêm hoặc yêu cầu các ngân hàng có mức an toàn vốn thực tế dưới mức tối thiểu theo luật định phải sáp nhập hoặc giải thể. Tại các nền kinh tế phát triển, chính phủ có đủ nguồn lực tài chính sẽ có xu hướng “quốc hữu


hóa” để nắm quyền kiểm soát nhằm thực hiện các biện pháp tái cấu trúc cần thiết, sau đó bán lại cho tư nhân khi ngân hàng đó dần đi vào ổn định.

Tại các nền kinh tế đang phát triển, khi chính phủ không đủ nguồn lực để ‘quốc hữu hóa’ toàn bộ các NHTM yếu kém sẽ có xu hướng mời các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài tài trợ tăng vốn cho các ngân hàng gặp khó khăn bằng cách đưa ra các điều kiện có lợi (gọi là vốn đối ứng hay thực chất là đồng tài trợ). Theo đó, khi nhà đầu tư bỏ vốn tài trợ cho một ngân hàng gặp khó khăn thì Chính phủ cũng cam kết góp vốn vào ngân hàng đó theo một tỷ lệ nhất định dưới vai trò nhà đầu tư thứ hai đồng tài trợ. Điều này không chỉ tạo niềm tin cho nhà đầu tư về khả năng vực dậy của ngân hàng mà còn làm giảm lượng vốn Chính phủ cần bỏ ra để cải thiện tình hình tài chính của ngân hàng đó. Trong thực tiễn, để khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài, Chính phủ một số nước cũng tiến hành nâng hạn mức sở hữu nước ngoài lên một mức cao và trong một khoảng thời gian tương đối dài. Tiếp đó, nhằm tránh tình trạng rủi ro gia tăng khi bị các cổ đông nước ngoài chi phối, sau khoảng thời gian đã cam kết ban đầu, các nhà đầu tư nước ngoài phải bán lại cổ phần của mình cho các nhà đầu tư trong nước để giảm tỷ lệ sở hữu nước ngoài xuống một mức hợp lý theo luật định.

2.6.4. Xử lý nợ xấu

- Nhận diện nợ xấu:

Kinh nghiệm từ các cuộc khủng hoảng tài chính khu vực và toàn cầu trong vài thập niên trở lại đây cho thấy, vấn đề nợ xấu trong hệ thống ngân hàng không chỉ là nguyên nhân trực tiếp gây ra khủng hoảng mà là rào cản chủ yếu đối với quá trình xử lý khủng hoảng và tái cấu trúc nền kinh tế hậu khủng hoảng. Vì vậy, xử lý nợ xấu là một yêu cầu mang tính tiên quyết trong cải cách hệ thống ngân hàng.

Hiện nay còn có sự khác biệt giữa các quốc gia và các định chế tài chính quốc tế về khái niệm, các tiêu chí đo lường, cách phân loại nợ xấu. Cụ thể:

Khái niệm nợ xấu của Ngân hàng Thế giới World Bank (2006): Theo WB, nợ xấu là khoản nợ dưới chuẩn, có thể quá hạn và bị nghi ngờ về khả năng trả nợ lẫn khả năng thu hồi vốn của chủ nợ, điều này thường xảy ra khi các con nợ đã tuyên bố phá sản hoặc đã tẩu tán tài sản.Nợ xấu gồm các khoản nợ quá hạn trả lãi và/hoặc gốc thường quá 3 tháng căn cứ vào khả năng trả nợ của khách hàng để hạch toán các khoản vay vào các nhóm thích hợp [World Bank (2006)].

Định nghĩa của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) Trong bản Hướng dẫn tính toán các chỉ số lành mạnh tài chính (Financial Soundness Indicators: FSIs) tại các quốc gia, IMF đưa ra khái niệm về nợ xấu ngân hàng như sau: “Một khoản vay được coi là nợ xấu khi quá hạn thanh toán gốc hoặc lãi 90 ngày hoặc hơn; khi các khoản lãi suất


đã quá hạn 90 ngày hoặc hơn đã được vốn hóa, cơ cấu lại, hoặc trì hoãn theo thỏa thuận; khi các khoản thanh toán đến hạn dưới 90 ngày nhưng có thể nhận thấy những dấu hiệu rõ ràng cho thấy người vay sẽ không thể hoàn trả nợ đầy đủ (người vay phá sản). Sau khi khoản vay được xếp vào danh mục nợ xấu, nó hoặc bất cứ khoản vay thay thế nào cũng nên được xếp vào danh mục nợ xấu cho tới thời điểm phải xóa nợ hoặc thu hồi được lãi và gốc của khoản vay đó hoặc thu hồi được khoản vay thay thế” [IMF’s Compilation Guide on Financial Soundness Indicators, 2004.]. Một số quốc gia trên thế giới (trong đó có Trung Quốc) áp dụng định nghĩa này của IMF.

Định nghĩa của Chuẩn mực kế toán quốc tế (IAS), khuyến cáo áp dụng ở một số nước phát triển, chú trọng đến khả năng hoàn trả của khoản vay mà không quan tâm tới thời gian quá hạn chưa tới 90 ngày hoặc chưa quá hạn. Phương pháp để đánh giá khả năng trả nợ của khách hàng thường là phương pháp phân tích dòng tiền tương lai hoặc xếp hạng khoản vay. Hệ thống này được coi là chính xác về mặt lý thuyết, nhưng việc áp dụng thực tế gặp nhiều khó khăn.

Định nghĩa của Ủy ban Basel về Giám sát Ngân hàng (BCBS), năm 2005 không đưa ra thời gian quá hạn chi trả khi một khoản nợ bị coi là “xấu” (có thể là 30

– 89 ngày, 90 – 179 ngày, trên 180 ngày ở các quốc gia khác nhau) mà cho rằng đó là “khoản nợ đã quá hạn và ngân hàng thấy người vay không có khả năng trả nợ đầy đủ khi ngân hàng chưa thực hiện hành động gì để cố gắng thu hồi” [Basel Committee on Banking Supervision (2005)].

Theo quan điểm của Ngân hàng trung ương châu Âu (ECB) [Eighteenth Meeting of the IMF Committee on Balance of Payments Statistics Washington, D.C, (June 27 – July 1 (2005))] thì nợ xấu được định nghĩa qua hai yếu tố: (i) Nợ xấu là những khoản cho vay không có khả năng thu hồi như: Những khoản nợ đã hết hiệu lực hoặc những khoản nợ không có căn cứ đòi bồi thường từ người mắc nợ. Người mắc nợ trốn hoặc bị mất tích, không còn tài sản để thanh toán nợ; những khoản nợ mà ngân hàng không thể liên lạc được với người mắc nợ; những khoản nợ mà khách hàng chấm dứt hoạt động kinh doanh, thanh lý tài sản, hoặc kinh doanh bị thua lỗ và tài sản còn lại không đủ để trả nợ. Và (ii) nợ xấu là những khoản cho vay có thể không được thu hồi đầy đủ cho ngân hàng: Đây là những khoản nợ không có tài sản thế chấp hoặc tài sản đưa ra để thế chấp không đủ để trả nợ. Điều đó đồng nghĩa với việc ngân hàng không thể thu hồi đầy đủ món nợ vì người mắc nợ rất khó kiếm được lợi nhuận từ công việc kinh doanh hoặc người mắc nợ không liên lạc với ngân hàng để thanh toán, hoặc hoàn cảnh chỉ rõ rằng phần lớn tiền nợ sẽ không thể thu hồi được.


Tại Việt Nam, nợ xấu không được định nghĩa trực tiếp mà được xác định gián tiếp thông qua quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động của TCTD [34]. Theo đó, nợ xấu là các khoản nợ thuộc các nhóm 3, 4, 5 bao gồm nợ dưới tiêu chuẩn, nợ nghi ngờ, nợ có khả năng mất vốn. Như vậy, định nghĩa về nợ xấu tại Việt Nam hiện nay đã khá tương đồng với tiêu chuẩn quốc tế và thực tiễn áp dụng tại nhiều nước trên thế giới (như Hoa Kỳ, Nhật Bản, Singapore, Trung Quốc).

Mặc dù có sự thống nhất giữa các quốc gia về hai tiêu chuẩn trên, nội hàm về nợ xấu của các quốc gia còn khác nhau do phương pháp xếp hạng khả năng trả nợ, chuẩn mực kế toán, năng lực và tính toàn vẹn của cơ quan quản lý, giám sát và hiệu lực thực thi của các quy định (Lauren và cộng sự, 2002). Ví dụ, quy định về trích lập dự phòng cho 5 nhóm nợ lần lượt là: 0%, 5%, 20%, 50% và 100% (tại Việt Nam);

1%, 3%, 25%, 75% và 100% (tại Trung Quốc), 0%, 0%, 15%, 70% và 100% (tại

Nhật Bản).

- Giải pháp xử lý nợ xấu:

Đã có nhiều nghiên cứu về kinh nghiệm và các giải pháp xử lý nợ xấu của các nền kinh tế trước, trong và sau khủng hoảng tài chính (Dziobek và Pazarbasioglu, 1998). Tuy nhiên, điều quan trọng nhất đối với các nhà hoạch định chính sách là cần phân biệt rõ các biện pháp xử lý ứng với các nguyên nhân gây nên nợ xấu, có thể là biện pháp ngắn hạn (như chuyển nợ xấu cho các công ty quản lý tài sản) và có thể là dài hạn (như tái cấu trúc hệ thống).

Hiện nay có 2 trường phái xử lý nợ xấu cơ bản trong hệ thống ngân hàng, gồm:

(i) các giải pháp dựa trên sự can thiệp của nhà nước (mua lại nợ xấu, tái cấp vốn cho các NHTM yếu kém…) và (ii) các giải pháp dựa trên thị trường (phát triển các thị trường mua bán nợ để thu hút nguồn lực tư nhân tham gia xử lý nợ xấu). Hầu hết các quốc gia đều kết hợp cả hai trường phái này trong quá trình xử lý nợ xấu.

Trong trường hợp của Việt Nam, các giải pháp dựa trên sự can thiệp của Nhà nước thời gian qua đã được thể hiện khá rõ như: Thành lập VAMC (doanh nghiệp 100% sở hữu của Nhà nước), tái cấp vốn trực tiếp cho các ngân hàng yếu kém hoặc thông qua ngân hàng thương mại nhà nước…. Trong khi đó, giải pháp dựa trên thị trường chưa được thể hiện rõ nét. Kinh nghiệm từ Trung Quốc cho thấy, cần phát triển thị trường mua bán nợ song song với việc thành lập và hoạt động của các AMC vì nợ xấu từ DNNN do các AMC mua lại chỉ thực sự được giải quyết khỏi hệ thống khi các khoản nợ này được các AMC cấu trúc lại và bán cho các nhà đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, quá trình hoàn thiện khung khổ pháp lý và phát triển thực tế của thị trường mua bán nợ xấu ngân hàng của Trung Quốc cũng còn những hạn chế nhất


định khiến nợ xấu vẫn chậm được xử lý. Vì vậy, nghiên cứu về kinh nghiệm phát triển thị trường mua bán nợ xấu của Trung Quốc, cả những bài học thành công và thất bại, sẽ hữu ích trong việc xây dựng khuôn khổ chính sách cho thị trường này ở Việt Nam trong giai đoạn sắp tới.

2.6.5. Thành lập cơ quan đặc trách xử lý nợ xấu

Đây được xem là biện pháp tiên quyết trong tiến trình tái cấu trúc hệ thống ngân hàng ở một quốc gia. Khi nợ xấu tăng liên tục một cách có hệ thống, Chính phủ và NHTW các nước đều nỗ lực giảm tỷ lệ này xuống mức an toàn một cách nhanh nhất. Mỗi quốc gia có một cách xử lý khác nhau, trong đó phổ biến nhất là nâng mức yêu cầu về dự phòng rủi ro, siết chặt các quy định về phân loại nợ, trích lập dự phòng, và tăng cường kiểm tra, giám sát việc thực hiện. Đặc biệt, tại một số nước, Chính phủ phân loại các ngân hàng có tỷ lệ nợ xấu cao thành 2 nhóm: (i) nhóm hoạt động tốt; (ii) nhóm các khoản nợ dưới chuẩn; và yêu cầu nhóm (ii) tập trung vào giải quyết các khoản nợ xấu và để ban lãnh đạo ngân hàng thuộc nhóm (i) có điều kiện tập trung phát triển những hoạt động cho vay mới có hiệu quả.

Thành lập Công ty Quản lý Nợ và Tài sản (AMC) là một mô hình giải quyết nợ xấu khác đã được áp dụng thành công tại một số nước. Các công ty quản lý nợ và tài sản xấu không chỉ giúp tăng tính chuyên nghiệp trong khả năng xử lý nợ mà còn giúp hệ thống ngân hàng hoạt động ổn định trở lại do việc mua lại nợ xấu sẽ tạo điều kiện phục hồi khả năng cho vay của các ngân hàng. Ngoài ra, về mặt kinh tế, các AMC còn giúp tận thu giá trị của các tài sản xấu, bù đắp phần nào chi phí bỏ ra trong tiến trình tái cấu trúc bằng cách cấu trúc lại các khoản nợ và bán lại cho các nhà đầu tư chuyên nghiệp khác (như quỹ đầu tư, quỹ hưu trí…) để đem lại lợi nhuận.

Có hai mô hình xử lý nợ xấu phổ biến trên thế giới: Mô hình tập trung (nợ xấu của các NHTM sẽ được tập trung lại vào một công ty quản lý tài sản để xử lý) và mô hình phi tập trung (các ngân hàng vẫn giữ nguyên nợ xấu trong báo cáo tài chính của mình, nhưng lập ra công ty quản lý tài sản của mỗi ngân hàng để tự xử lý khoản nợ xấu đó). Khởi nguồn của mô hình tập trung là Hoa kỳ với RTC (Resolution Trust Company - Công ty tín thác xử lý tài sản). Sau sự thành công của RTC tại Mỹ, nhiều quốc gia đã áp dụng và xây dựng công ty quản lý tài sản quốc gia như Ma-lai-xi-a, Hàn Quốc, Trung Quốc, Nhật Bản và thu được những kết quả khác nhau. Trong khi đó, mô hình phi tập trung cũng được áp dụng ở các nước Đông Âu như Hungari, Ba Lan, Cộng hòa Séc, tuy nhiên mức độ thành công của mô hình này không cao như mô hình tập trung.

Xem tất cả 130 trang.

Ngày đăng: 23/04/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí