Nâng cao năng lực cạnh tranh tại công ty Cổ phần Điện tử và Tin học Đà Nẵng - 2


nhận thấy Công ty đã nhanh chóng thích nghi với cơ chế thị trường. Thị phần của công ty trên thị trường ngày càng mở rộng và uy tín công ty ngày càng được nâng cao. Với các sản phẩm điện máy chất lượng cùng phong cách dịch vụ chuyên nghiệp, Công ty đã dần tạo được vị thế vững chắc trong lòng người tiêu dùng. Tuy nhiên, do nhu cầu ngày càng tăng, tồn tại rất nhiều đối thủ cạnh tranh trên thị trường, mức độ cạnh tranh ngành kinh doanh điện máy ngày càng gay gắt hơn. Trong khi đó, nguồn lực tài chính, cơ sở vật chất, nhân sự của công ty còn hạn chế; các chính sách, công cụ cạnh tranh chưa thực sự hiệu quả. Tất cả những hạn chế đó đủ làm giảm năng lực cạnh tranh của công ty.

Vì vậy, việc nghiên cứu tình hình năng lực cạnh tranh của công ty, từ đó tìm ra được những điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội, thách thức của công ty trong quá trình hoạt động nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh cho doanh nghiệp là hết sức cần thiết. Đó là một yếu tố khách quan của quy luật cạnh tranh.

Với mong muốn góp phần thúc đẩy sự phát triển của công ty, em quyết định chọn đề tài nghiên cứu: “ Nâng cao năng lực cạnh tranh tại công ty Cổ phần Điện tử và Tin học Đà Nẵng” làm đề tài đồ án tốt nghiệp của mình.


CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA DOANH NGHIỆP

1.1 Khái niệm cạnh tranh, năng lực cạnh tranh, lợi thế cạnh tranh

1.1.1 Khái niệm về cạnh tranh

Khái niệm cạnh tranh ra đời khi nền kinh tế thị trường xuất hiện. Thuật ngữ “cạnh tranh” có nguồn gốc từ tiếng Latinh với nghĩa chủ yếu là sự đấu tranh, ganh đua giữa các đối tượng cùng phẩm chất, cùng loại, đồng giá trị nhằm đạt được những ưu thế, lợi thế, mục tiêu xác định. Trong lịch sử phát triển của nền kinh tế thế giới đã có rất nhiều quan điểm khác nhau về cạnh tranh:

- TS Trần Thị Minh Châu định nghĩa: “Cạnh tranh là sự ganh đua giữa những người, những tổ chức cùng hoạt động trong một lĩnh vực, nhằm giành lấy những điều kiện có lợi nhất về phía mình.”

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 102 trang tài liệu này.

- Từ điển Bách Khoa Việt Nam (tập 1) định nghĩa: “Cạnh tranh trong kinh doanh là hoạt động là hoạt động ganh đua giữa những người sản xuất hàng hóa, giữa các thương nhân, các nhà kinh doanh trong nền kinh tế thị trường, bị chi phối bởi quan hệ cung – cầu, nhằm giành lấy các điều kiện sản xuất, tiêu thụ, thị trường có lợi nhất”.

- Theo nhà kinh tế học Michael Porter của Mỹ : “Cạnh tranh (kinh tế) là giành lấy thị phần. Bản chất của cạnh tranh là tìm kiếm lợi nhuận, là khoản lợi nhuận cao hơn mức lợi nhuận trung bình mà doanh nghiệp đang có. Kết quả quá trình cạnh tranh là sự bình quân hóa lợi nhuận trong ngành theo chiều hướng cải thiện sâu dẫn đến hệ quả giá cả có thể giảm đi”.

Nâng cao năng lực cạnh tranh tại công ty Cổ phần Điện tử và Tin học Đà Nẵng - 2

- Giáo trình Kinh tế chính trị học Mác – Lê nin định nghĩa: “Cạnh tranh là sự ganh đua, sự đấu tranh về kinh tế giữa các chủ thể tham gia sản xuất - kinh doanh với nhau nhằm giành những điều kiện thuận lợi trong sản xuất - kinh doanh tiêu thụ hàng hóa hoặc dịch vụ để thu được nhiều lợi ích nhất cho mình. Mục tiêu của cạnh tranh là giành lấy lợi ích, lợi nhuận lớn nhất, đảm bảo sự tồn tại và phát triển của chủ thể tham gia cạnh tranh.”

Các quan điểm trên đây tuy có sự khác biệt trong cách diễn đạt nhưng đều có nét tương đồng về nội dung. Từ đó, có thể đưa ra một quan điểm tổng quát sau đây về cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường: “Cạnh tranh là quan hệ kinh tế mà ở đó các chủ thể kinh tế ganh đua nhau tìm mọi biện pháp để đạt mục tiêu kinh tế của mình, thông thường là chiếm lĩnh thị trường, giành lấy khách hàng cũng như điều kiện sản

xuất, thị trường có lợi nhuận. Mục đích cuối cùng của các chủ thể kinh tế trong quá trình cạnh tranh là tối đa hóa lợi ích, đối với người sản xuất – kinh doanh là tối đa hóa lợi nhuận.”

1.1.2 Khái niệm về lợi thế cạnh tranh

Lợi thế cạnh tranh là giá trị mà doanh nghiệp mang đến cho khách hàng, giá trị đó vượt quá chi phí dùng để tạo ra nó. Giá trị mà khách hàng sẵn sàng để trả và ngăn trở việc đề nghị những mức giá thấp hơn của đối thủ cho những lợi ích tương đương hay cung cấp những lợi ích độc nhất hơn là phát sinh một giá cao hơn.

(Nguồn: Michael Porter, “Competitive Advantange”, 1985, trang 3)

1.1.3 Khái niệm năng lực cạnh tranh

Năng lực cạnh tranh đã và đang là chủ đề được bàn luận nhiều ở các nước phát triển và đang phát triển vì tầm quan trọng của nó đối với sự phát triển của nền kinh tế. Mặc dù, các nhà kinh tế thống nhất với nhau về tầm quan trọng nhưng lại có những nhận thức khác nhau về năng lực cạnh tranh. Do vậy, có rất nhiều cách hiểu khác nhau về thuật ngữ năng lực cạnh tranh.

- Đại từ điển do Nguyễn Như Ý chủ biên (Nhà xuất bản Văn hóa - thông tin) có định nghĩa: “Năng lực cạnh tranh là khả năng giành thắng lợi trong cuộc cạnh tranh của những hàng hóa cùng loại trên một thị trường tiêu thụ.” “Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là thực lực và lợi thế mà doanh nghiệp có thể huy động để duy trì và cải thiện vị trí của mình so với các đối thủ cạnh tranh trên thị trường một cách lâu dài, nhằm thu lại lợi ích ngày càng cao cho doanh nghiệp của mình.”

- Theo Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế: “Năng lực cạnh tranh là khả năng của doanh nghiệp, ngành, quốc gia, khu vực trong việc tạo ra việc làm và thu nhập cao hơn trong điều kiện kinh tế quốc tế.”

- Theo từ điển Bách khoa toàn thư Việt Nam: “Năng lực cạnh tranh là khả năng của một mặt hàng, một đơn vị kinh doanh, hoặc một nước giành thắng lợi (kể cả giành lại một phần hay toàn bộ thị phần) trong cuộc cạnh tranh trên thị trường tiêu thụ.”

- Theo nhà quản trị chiến lược Micheal Porter: “Năng lực cạnh tranh của công ty có thể hiểu là khả năng chiếm lĩnh thị trường tiêu thụ các sản phẩm cùng loại (hay sản phẩm thay thế) của công ty đó. Năng lực giành giật và chiếm lĩnh thị trường tiêu thụ cao thì doanh nghiệp đó có năng lực cạnh tranh cao.” Micheal Porter không bó hẹp ở

các đối thủ cạnh tranh trực tiếp mà ông mở rộng ra cả các đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn và các sản phẩm thay thế.

Những định nghĩa trên cho thấy năng lực cạnh tranh của một doanh nghiệp trước hết phải được tạo ra từ khả năng và thực lực của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp được coi là có năng lực cạnh tranh khi doanh nghiệp đó dám chấp nhận việc giành những điều kiện thuận lợi cho chính doanh nghiệp. Doanh nghiệp cần phải có tiềm lực đủ mạnh để đảm bảo đứng vững trong cạnh tranh.

1.2 Các loại hình cạnh tranh

1.2.1 Căn cứ vào đối tượng cạnh tranh

1.2.1.1 Cạnh tranh giữa người bán với nhau

Cạnh tranh giữa những người bán là cuộc cạnh tranh chính và khốc liệt nhất trong nền kinh tế thị trường. Nó có ý nghĩa sống còn đối với các chủ doanh nghiệp. Khi sản xuất hàng hóa phát triển, số người bán càng tăng lên thì cạnh tranh càng quyết liệt bởi doanh nghiệp nào cũng muốn giành lấy lợi thế cạnh tranh, chiếm lĩnh thị phần. Trong cuộc cạnh tranh này, những doanh nghiệp nào không có chiến lược cạnh tranh thích hợp sẽ lần lượt bị gạt ra khỏi thị trường.

1.2.1.2 Cạnh tranh giữa người mua với nhau

Là cuộc cạnh tranh trên cơ sở quy luật cung cầu. Khi một loại hàng hóa dịch vụ nào đó có mức cung cấp nhỏ hơn nhu cầu tiêu dùng thì cuộc cạnh tranh trở nên quyết liệt và giá hàng hóa đó sẽ tăng lên. Kết quả cuối cùng là người bán sẽ thu được lợi nhuận cao, còn người mua thì mất thêm một số tiền.

1.2.1.3 Cạnh tranh giữa người mua và người bán

Là cuộc cạnh tranh diễn ra theo “luật” mua rẻ bán đắt. Người mua luôn muốn mua được với giá rẻ, ngược đời người bán lại muốn được bán với giá đắt. Sự cạnh tranh này được thực hiện trong quá trình mặc cả và cuối cùng giá cả được hình thành và hoạt động mua bán được thực hiện.

1.2.2 Căn cứ vào mức độ cạnh tranh trên thị trường

1.2.2.1 Cạnh tranh hoàn hảo

Cạnh tranh hoàn hảo là hình thức cạnh tranh mà trên thị trường có rất nhiều người bán, họ đều quá nhỏ lẻ nên sản xuất được bao nhiêu họ đều có thể bán tất cả các sản phẩm của mình tại mức giá thị trường hiện hành. Vì vậy, một hãng trong thị trường cạnh tranh hoàn hảo không có lý do gì để bán rẻ hơn mức giá thị trường. Đồng

thời hàng năm cũng không tăng giá của mình lên cao hơn giá thị trường.Vì nếu tăng giá thì doanh nghiệp sẽ không bán được hàng, do người tiêu dùng sẽ đi mua hàng với mức giá hợp lý từ các đối thủ cạnh tranh của doanh nghiệp. Do đó, các doanh nghiệp sản xuất sẽ luôn tìm biện pháp để giảm chi phí sản xuất đến mức tối đa, nhờ đó có thể tăng lợi nhuận.

Thị trường cạnh tranh hoàn hảo sẽ không có những hiện tượng cung cầu giả tạo, không bị hạn chế bởi các biện pháp hành chính Nhà nước. Vì vậy, trong thị trường cạnh tranh hoàn hảo giá cả thị trường sẽ dần tới chi phí sản xuất.

1.2.2.2 Cạnh tranh không hoàn hảo

Nếu một doanh nghiệp có thể tác động đến giá cả thị trường đối với đầu ra của doanh nghiệp ấy thì doanh nghiệp đó được liệt vào hàng “cạnh tranh không hoàn hảo”. Như vậy, cạnh tranh không hoàn hảo là cạnh tranh trên thị trường không đồng nhất với nhau. Mỗi loại sản phẩm có thể có nhiều nhãn hiệu khác nhau mặc dù sự khác biệt giữa các sản phẩm là không đáng kể. Mỗi loại sản phẩm lại có uy tín, hình ảnh khác nhau, các điều kiện mua bán cũng sẽ khác nhau. Người bán kéo khách hàng về phía mình bằng nhiều cách: quảng cáo, khuyến mãi, phương thức bán hàng và cung cấp dịch vụ, tín dụng… Loại hình cạnh tranh không hoàn hảo rất phổ biến trong nền kinh tế thị trường.

1.2.2.3 Cạnh tranh độc quyền

Cạnh tranh độc quyền là cạnh tranh trên thị trường mà ở đó có một số người bán một số sản phẩm thuần nhất hoặc nhiều người bán một loại sản phẩm không đồng nhất.

Họ có thể kiểm soát gần như toàn bộ số lượng sản phẩm hay hàng hóa bán ra trên thị trường. Thị trường này có pha trộn giữa độc quyền và cạnh tranh, được gọi là thị trường cạnh tranh độc quyền. Ở đây xảy ra cạnh tranh giữa các nhà độc quyền. Điều kiện gia nhập hoặc rút lui khỏi thị trường cạnh tranh độc quyền có nhiều trở ngại do vốn đầu tư lớn hoặc do độc quyền bí mật về bí quyết công nghệ. Thị trường này không có cạnh tranh về giá cả mà một số người bán toàn quyền quyết định giá cả.

Họ có thể định giá cao hơn, điều này tùy thuộc vào đặc điểm tiêu dùng của từng sản phẩm, mục đích cuối cùng là họ thu được lợi nhuận tối đa. Những doanh nghiệp nhỏ tham gia thị trường này thường phải chấp nhận bán hàng theo giá cả của nhà độc quyền.

Trong thực tế có thể có tình trạng độc quyền xảy ra nếu có sản phẩm nào thay thế sản phẩm độc quyền hoặc khi các nhà độc quyền liên kết với nhau. Độc quyền gây trở ngại cho sự phát triển và làm thiệt hại đến người tiêu dùng.

1.2.3 Căn cứ vào phạm vi ngành kinh tế

1.2.3.1 Cạnh tranh trong nội bộ ngành

Cạnh tranh trong nội bộ ngành là sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp cùng sản xuất và tiêu thụ một loại hàng hóa hoặc dịch vụ nào đó. Trong cuộc cạnh tranh này, các chủ doanh nghiệp thôn tính nhau. Những doanh nghiệp chiến thắng sẽ mở rộng phạm vi hoạt động của mình trên thị trường. Những doanh nghiệp thua cuộc sẽ phải thu hẹp kinh doanh, thậm chí phá sản.

1.2.3.2 Cạnh tranh giữa các ngành

Là sự cạnh tranh giữa các chủ doanh nghiệp trong các ngành kinh tế khác nhau nhằm giành lấy lợi nhuận lớn nhất. Trong quá trình cạnh tranh này, các chủ doanh nghiệp luôn say mê với những ngành đầu tư có lợi nhuận nên đã chuyển vốn kinh doanh từ những ngành ít thu được lợi nhuận sang những ngành có lợi nhuận cao hơn. Sự điều chỉnh này sau một thời gian nhất định sẽ hình thành nên sự phân phối vốn hợp lý giữa các ngành sản xuất. Kết quả cuối cùng là các chủ doanh nghiệp đầu tư ở các ngành khác nhau với số vốn bằng nhau và chỉ thu được lợi nhuận như nhau. Tức là hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân cho tất cả các ngành.

1.3 Các hình thức, công cụ cạnh tranh

Hình thức, công cụ cạnh tranh của doanh nghiệp có thể hiểu là tập hợp các yếu tố, các kế hoạch, các chiến lược, các chính sách, các hành động mà doanh nghiệp sử dụng nhằm vượt trên đối thủ cạnh tranh và tác động vào khách hàng để thỏa mãn nhu cầu của khách hàng. Từ đó tiêu thụ được nhiều sản phẩm, thu được lợi nhuận cao, nghiên cứu các công cụ cạnh tranh cho phép doanh nghiệp lựa chọn những công cụ, hình thức cạnh tranh phù hợp với tình hình thực tế, với quy mô kinh doanh và thị trường của doanh nghiệp. Việc lựa chọn công cụ cạnh tranh có tính chất linh hoạt và phù hợp, không theo một khuôn mẫu nào.

1.3.1 Cạnh tranh bằng giá cả

Giá cả là sự biểu hiện bằng số tiền mà người mua trả cho người bán về việc cung ứng một số hàng hóa dịch vụ nào đó. Thực chất giá cả là sự biểu hiện bằng tiền của giá trị hao phí lao động sống và hao phí lao động vật hóa để sản xuất ra một đơn vị sản

phẩm chịu ảnh hưởng của quy luật cung cầu. Khi có cùng hàng hóa, dịch vụ với chất lượng tương đương nhau thì họ sẽ lựa chọn mức giá thấp hơn để lợi ích thu được từ sản phẩm là tối ưu nhất. Do vậy, giá cả đã trở thành một biến số chiến thuật phục vụ mục đích kinh doanh từ rất lâu. Giá cả đã thể hiện như một vũ khí để cạnh tranh thông qua việc định giá sản phẩm: định giá thấp hơn giá thị trường, định giá ngang bằng giá thị trường, định giá cao hơn giá thị trường.

- Một mức giá ngang bằng với giá thị trường sẽ giúp doanh nghiệp đánh giá được khách hàng, nếu doanh nghiệp tìm ra được biện pháp giảm giá mà chất lượng sản phẩm vẫn được đảm bảo khi đó lượng tiêu thụ sẽ tăng lên, hiệu quả kinh doanh cao và lợi nhuận thu được nhiều hơn.

- Với một mức giá thấp hơn mức giá thị trường thì chính sách này được áp dụng khi cơ sở sản xuất muốn tập trung một lượng hàng hóa lớn, thu hồi vốn và lời nhanh. Không ít doanh nghiệp đã thành công khi áp dụng chính sách định giá thấp. Họ chấp nhận giảm sút quyền lợi trước mắt đến lúc có thể để sau này chiếm được cả thị trường rộng lớn, với khả năng tiêu thụ tiềm tàng. Định giá thấp giúp doanh nghiệp ngay từ đầu có một chỗ đứng nhất định để định vị vị trí của mình, từ đó thâu tóm khách hàng và mở rộng thị trường.

- Chính sách định giá cao hơn giá thị trường là ấn định giá bán sản phẩm cao hơn giá bán sản phẩm cùng loại ở thị trường hiện tại khi mà lần đầu tiên người tiêu dùng chưa biết chất lượng của nó nên chưa có cơ hội để so sánh, xác định mức giá của loại sản phẩm này là đắt hay rẻ chính là đánh vào tâm lý của người tiêu dùng rằng hàng hóa giá cao thì có chất lượng cao hơn các hàng hóa khác. Doanh nghiệp thường áp dụng chính sách này khi nhu cầu thị trường lớn hơn cung hoặc khi doanh nghiệp hoạt động trong thị trường độc quyền, hoặc khi bán những mặt hàng quý hiếm, cao cấp ít có sự nhạy cảm về giá.

Như vậy, để quyết định sử dụng chính sách giá nào cho phù hợp và thành công khi sử dụng nó thì doanh nghiệp cần cân nhắc và xem xét kỹ lưỡng xem mình đang ở tình trạng thế nào, nhất là nghiên cứu xu hướng tiêu dùng và tâm lý khách hàng cũng như cần phải xem xét chiến lược các chính sách giá mà đối thủ cạnh tranh đang sử dụng.

1.3.2 Cạnh tranh bằng chất lượng sản phẩm

Chất lượng sản phẩm là tổng thể các chỉ tiêu, những thuộc tính của sản phẩm thể hiện mức độ thỏa mãn trong những điều kiện tiêu dùng xác định, phù hợp với công dụng, lợi ích sản phẩm. Nếu như trước kia giá cả được coi là quan trọng nhất trong cạnh tranh thì ngày nay tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm được coi trọng hơn. Khi có cùng một loại sản phẩm, chất lượng sản phẩm nào tốt hơn, đáp ứng và thỏa mãn được nhu cầu của người tiêu dùng thỳ họ sẵn sàng mua với mức giá cao hơn. Nhất là trong nền kinh tế thị trường cùng với sự phát triển của sản xuất, thu nhập của người lao động ngày càng tăng, họ có điều kiện thỏa mãn nhu cầu của mình, cái họ cần là chất lượng và lợi ích sản phẩm đem lại.

Để sản phẩm của doanh nghiệp luôn là sự lựa chọn của khách hàng ở hiện tại và cả tương lai thì nâng cao chất lượng sản phẩm là điều cần thiết nhất. Nâng cao chất lượng sản phẩm là sự thay đổi chất liệu sản phẩm hoặc thay đổi công nghệ chế tạo đảm bảo lợi ích và tính an toàn trong quá trình tiêu dùng.

Chất lượng sản phẩm được coi là một trong những vấn đề sống còn đối với doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp Việt Nam khi mà họ phải đương đầu với các đối thủ cạnh tranh từ nước ngoài vào Việt Nam. Chất lượng thể hiện tính quyết định khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp ở chỗ nâng cao chất lượng, làm tăng tốc độ tiêu thụ sản phẩm, tăng khối lượng hàng hóa bán ra, kéo dài chu kỳ sống của sản phẩm. Nâng cao chất lượng sản phẩm sẽ làm tăng uy tín của doanh nghiệp. Do vậy, cạnh tranh bằng chất lượng sản phẩm là một yếu tố quan trọng và cần thiết mà bất cứ doanh nghiệp nào đều phải sử dụng.

1.3.3 Cạnh tranh bằng chính sách Marketing

Để nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp thì chính sách marketing đóng một vai trò rất quan trọng bởi khi bắt đầu thực hiện hoạt động kinh doanh, doanh nghiệp cần phải nghiên cứu thị trường, tìm hiểu nhu cầu khách hàng đang có xu hướng tiêu dùng những sản phẩm gì, thu thập thông tin thông qua sự phân tích và đánh giá doanh nghiệp sẽ đi đến quyết định sản xuất những gì. Doanh nghiệp sẽ kinh doanh những gì khách hàng cần, khách hàng có nhu cầu. Trong khi thực hiện hoạt động kinh doanh thì doanh nghiệp thường sử dụng các chính sách xúc tiến bán hàng thông qua các hình thức quảng cáo, truyền bá sản phẩm đến người tiêu dùng. Kết thúc quá trình

Xem tất cả 102 trang.

Ngày đăng: 22/10/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí