PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Vấn đề tái cấu trúc hệ thống tài chính nói chung và hệ thống ngân hàng nói riêng tại Việt Nam đã và đang nhận được sự quan tâm đặc biệt trong những năm gần đây. Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2007-2008 vừa qua cho thấy, chính sự yếu kém trong hệ thống ngân hàng của một nước, dù là nước phát triển hay đang phát triển, đều là nguyên nhân trực tiếp gây nên khủng hoảng tài chính cũng như có tác động lây lan rất lớn đến nền kinh tế của nước khác trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế ngày càng sâu rộng. Tại Việt Nam, Đảng và Nhà nước đã đặt trọng tâm tái cấu trúc hệ thống các tổ chức tín dụng là một trong số “3 trụ cột” chính của quá trình tái cơ cấu nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng. Tuy nhiên, đánh giá tình hình thực hiện tái cơ cấu hệ thống ngân hàng giai đoạn 2012-2016 cho thấy, mặc dù đã có nhiều chủ trương, định hướng lớn được xác định nhưng quá trình triển khai tái cấu trúc hệ thống các tổ chức tín dụng trên thực tế vẫn còn chậm so với kế hoạch và kỳ vọng của thị trường cũng như chưa giải quyết được những vấn đề cơ bản đặt ra đối với hệ thống ngân hàng nước ta (Nguyễn Hồng Sơn, 2016) [28]. Do đó, đây đã trở thành một vấn đề chính sách, một chủ đề học thuật được các nhà nghiên cứu, nhà hoạch định chính sách và toàn xã hội quan tâm. Thông qua luận án này, tác giả sẽ hệ thống hóa các vấn đề lý luận, khung phân tích và thực tiễn kinh nghiệm quốc tế trong những thập niên vừa qua về vấn đề tái cơ cấu hệ thống ngân hàng, trong đó đặc biệt tập trung nghiên cứu quá trình tái cơ cấu hệ thống ngân hàng của Trung Quốc, để từ đó rút ra một số bài học kinh nghiệm và khuyến nghị chính sách cho quá trình tái cấu trúc hệ thống ngân hàng Việt Nam trong giai đoạn hiện nay và sắp tới.
Tính cấp thiết của vấn đề tái cấu trúc hệ thống ngân hàng Việt Nam kể từ sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2007 - 2008 thể hiện qua các nhân tố sau:
Thứ nhất, xét từ góc độ quốc tế, quá trình toàn cầu hóa đã làm thay đổi sâu sắc và căn bản mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế trên thế giới, đặc biệt trong lĩnh vực tài chính, theo đó, khủng hoảng tài chính, khi xảy ra tại một quốc gia, sẽ nhanh chóng lan truyền sang các quốc gia khác qua các mối liên
hệ tài chính quốc tế và trở thành cuộc khủng hoảng ở cấp độ khu vực, thậm chí toàn cầu (Nguyễn Xuân Thắng, 2007) [32]. Cụ thể, kể từ khi các bong bóng cho vay bất động sản dưới chuẩn ở Mỹ đổ vỡ vào giữa năm 2007, cuộc khủng hoảng này đã nhanh chóng lan ra các nền kinh tế khác thông qua các mối liên kết tài chính toàn cầu và làm suy sụp niềm tin vào hệ thống tài chính ở hầu hết các nền kinh tế phát triển và trở thành cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu tồi tệ nhất kể từ cuộc Đại suy thoái 1929 – 1933.
Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2007 - 2008 được nhiều nhà kinh tế và học giả trên thế giới đánh giá là một cuộc khủng hoảng mang tính mô hình [82, tr.1], vì chính những vấn đề yếu kém về cấu trúc nội tại trong hệ thống ngân hàng trước đó tại các nền kinh tế phát triển là nguyên nhân dẫn đến sự đổ vỡ và lan truyền của khủng hoảng (Goodhart, 2010) [83, tr.1]. Đồng thời, cuộc khủng hoảng vừa qua cũng cho thấy những yếu kém và nguy cơ đổ vỡ trong hệ thống ngân hàng tại các nền kinh tế đang phát triển trước những tác động tiêu cực của sự thăng trầm kinh tế toàn cầu (Strauss-Kahn, 2009) [131, tr.1]. Cho đến nay, mặc dù nhiều nền kinh tế đã và đang triển khai thực hiện những kế hoạch tái cấu trúc hệ thống ngân hàng khác nhau, nhưng chưa có mô hình tái cấu trúc nào cho đến nay được đánh giá là hình mẫu để các nước áp dụng theo (Luc và Ariff, 2009) [110, tr.6]. Đa số các định chế tài chính quốc tế và học giả nhận định rằng, trong thời gian tới trên thế giới sẽ diễn ra xu thế tái cấu trúc lại hệ thống ngân hàng theo hướng bền vững và gắn lĩnh vực tài chính chặt chẽ hơn với các hoạt động sản xuất thực của nền kinh tế (Võ Đại Lược, 2008) [13, tr.54].
Thứ hai, xét từ góc độ trong nước, hệ thống ngân hàng Việt Nam đang đứng trước những đòi hỏi ngày càng cao của yêu cầu bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, tăng trưởng nhanh và bền vững, thúc đẩy tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước cũng như những thách thức to lớn của quá trình tự do hóa tài chính và hội nhập kinh tế quốc tế (Võ Trí Thành et al, 2004) [31]. Do đó, những tồn tại cần được khắc phục trong tiến trình đổi mới căn bản hệ thống ngân hàng là rất lớn, như vấn đề hoàn thiện quản lý nhà nước đối với hệ thống ngân hàng, những yếu kém trong của hệ thống tín dụng trong nước (được bộc lộ rõ hơn trong giai đoạn suy giảm kinh tế vừa qua), sức ép cạnh tranh ngày càng gia tăng từ các ngân hàng
nước ngoài trong lộ trình Việt Nam thực hiện các cam kết về mở cửa dịch vụ tài chính ngân hàng ở mức WTO và WTO+ (Phạm Tiến Đạt, 2011) [7, tr.11].
Thứ ba, lý thuyết tài chính – ngân hàng hiện đại chỉ ra rằng, khủng hoảng tài chính chủ yếu bắt nguồn từ lĩnh vực ngân hàng và bất kỳ một cuộc khủng hoảng tài chính nào cũng liên quan đến bốn vấn đề chính trong ngành ngân hàng:
Có thể bạn quan tâm!
- Cải cách hệ thống ngân hàng trung quốc và một số bài học kinh nghiệm cho tiến trình tái cấu trúc hệ thống ngân hàng Việt Nam - 1
- Tình Hình Nghiên Cứu Về Cải Cách Hệ Thống Ngân Hàng Tại Trung Quốc
- Hệ Thống Ngân Hàng Và Những Nguyên Nhân Cơ Bản Cần Tái Cấu Trúc Hệ Thống Ngân Hàng
- Bối Cảnh, Vai Trò Của Nhà Nước Và Xu Hướng Tái Cấu Trúc Hệ Thống Ngân Hàng
Xem toàn bộ 127 trang tài liệu này.
(i) chất lượng tài sản kém; (ii) thiếu vốn tự có; (iii) gặp khó khăn về thanh khoản; và (iv) các vấn đề yếu kém về quản trị doanh nghiệp và quản lý rủi ro (Kindleberger và Aliber, 2011) [56]. Đối chiếu với thực trạng của hệ thống ngân hàng Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, có thể thấy việc Trung ương Đảng, Nhà nước và Chính phủ đặt vấn đề tái cấu trúc hệ thống ngân hàng một cách mạnh mẽ và triệt để vào thời điểm này được xem là cấp bách và kịp thời vì: (a) nợ xấu và nợ tiềm ẩn vốn là vấn đề lớn của toàn hệ thống các tổ chức tín dụng; (b) Mặc dù tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu (CAR) trung bình của các NHTM Việt Nam là trên 8% (theo công bố), tỷ lệ này có sự khác biệt lớn giữa các ngân hàng và nhóm ngân hàng, và đặc biệt có xu hướng giảm nhanh nếu như hạch toán đúng dự phòng cho các khoản nợ xấu/nợ tiềm ẩn; (c) các cuộc đua lãi suất thời gian qua của các ngân hàng đã cho thấy những khó khăn về thanh khoản của hệ thống ngân hàng Việt Nam (Tô Ngọc Hưng, 2013) [8].
Tại Việt Nam, vấn đề tái cấu trúc hệ thống ngân hàng tuy đã được đặt ra từ lâu, nhưng chỉ khi bùng nổ lạm phát nghiêm trọng cuối năm 2008 và suy thoái kinh tế từ đầu năm 2009 đến nay thì vấn đề này mới thực sự cấp thiết. Với sự phát triển và thay đổi về chất của nền kinh tế trong nước, cùng với xu hướng tự do hóa và hội nhập quốc tế ngày càng sâu của hệ thống tài chính Việt Nam, hệ thống ngân hàng Việt Nam đang đứng trước những yêu cầu tái cấu trúc một cách toàn diện và đồng bộ để góp phần quan trọng khắc phục những khó khăn trước mắt của nền kinh tế, cũng như tiếp tục là động lực tăng trưởng nhanh, bền vững của nền kinh tế trong trung và dài hạn (Tô Ánh Dương, 2013) [5].
Sự trỗi dậy của nền kinh tế Trung Quốc thời gian qua đang trở thành tâm điểm của cả thế giới (Lê Xuân Sang, 2005) [23]. Kể từ sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu khởi nguồn từ Mỹ vào cuối năm 2007, thế giới đã có những đánh giá lại theo hướng tích cực hơn về quy mô (IMF, 2010) và tính bền vững (PBOC,
2011) của hệ thống ngân hàng Trung Quốc (Đỗ Tiến Sâm, 2009) [26, tr.86-92]. Có thể nói, đó là kết quả của quá trình tái cấu trúc hệ thống ngân hàng mà Trung Quốc đã xúc tiến mạnh mẽ từ những năm 1990 trở lại đây (Wei Huang, 2010) [53, tr.11]. Mặc dù, cho đến nay, vẫn còn một số nhận định trái chiều về những thành tựu đạt được và thách thức mà hệ thống ngân hàng Trung Quốc đang đối diện trong giai đoạn sắp tới, có thể nói những gì mà nền kinh tế nói chung và lĩnh vực ngân hàng Trung Quốc nói riêng đã trải qua trong 2 thập niên qua vẫn là những bài học kinh nghiệm phong phú và phù hợp mà các nền kinh tế chuyển đổi như Việt Nam cần nghiên cứu để lựa chọn cho mình con đường tái cấu trúc hiệu quả (Nguyễn Kim Bảo, 2012) [4].
Hệ thống ngân hàng Việt Nam và Trung Quốc, mặc dù khác nhau về quy mô nhưng được đánh giá là có nhiều điểm tương đồng như: đều phát triển từ ngân hàng một cấp; các ngân hàng thương mại nhà nước (do chính phủ nắm phần lớn cổ phần) chi phối thị trường ngân hàng, tỷ lệ tín dụng chảy vào khu vực doanh nghiệp nhà nước (SOEs) lớn gắn liền với cơ chế cho vay chính sách… (Rosengard và Huynh, 2009) [126]. Bên cạnh đó, hệ thống ngân hàng của Việt Nam và Trung Quốc cũng có những điều kiện tiền đề và định hướng cải cách tương tự nhau (Võ Trí Thành, 2012) [30]. Tuy nhiên, Trung Quốc đã đẩy mạnh quá trình cải cách hệ thống ngân hàng của nước này từ thập niên 1990 và cho đến nay quá trình này vẫn còn tiếp diễn, trong khi, do tác động của khủng hoảng và suy giảm kinh tế thế giới giai đoạn 2008-2010, chúng ta chỉ mới thực sự thực hiện tái cấu trúc hệ thống ngân hàng gần đây, khi Chính phủ ban hành Đề án 254 ngày 01/3/2012 về “Cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng giai đoạn 2011 – 2015” và tiếp đó là Đề án 1058 ngày 19/07/2017 về “Có cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2016 – 2020”. Do đó, việc xem xét kinh nghiệm tái cấu trúc của hệ thống ngân hàng Trung Quốc là cần thiết để Việt Nam học hỏi những bài học thành công cũng nhưu chưa thành công, tận dụng những kinh nghiệm hay cũng như tránh lặp lại những sai lầm mà Trung Quốc đã trải qua, đồng thời lường trước được những nguy cơ, thách thức có thể gặp phải trong quá trình tái cấu trúc hệ thống ngân hàng hiện nay và sắp tới, góp phần vào quá trình thực hiện thành công mục tiêu cải cách lĩnh vực ngân hàng của Việt Nam nhằm giúp nền tài chính –
ngân hàng nước ta có thể đề kháng, chống chọi tốt nhất với những biến cố và cú sốc tài chính khu vực và toàn cầu trong tương lai.
Với những lý do trên, nghiên cứu sinh lựa chọn nghiên cứu đề tài “Cải cách hệ thống ngân hàng Trung Quốc và một số bài học kinh nghiệm cho tiến trình tái cấu trúc hệ thống ngân hàng Việt Nam” với mong muốn có thể đóng góp những nội dung lý luận và thực tiễn nhất định cho giới nghiên cứu và các nhà hoạch định chính sách trong tiến trình tái cấu trúc ngành ngân hàng nói riêng và hệ thống tài chính nói chung của Việt Nam trong giai đoạn sắp tới.
2. Đối tượng và mục đích nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là quá trình cải cách hệ thống ngân hàng tại Trung Quốc. Lý do lựa chọn đối tượng nghiên cứu này là Trung Quốc có thể chế chính trị, môi trường kinh tế, đặc biệt là cấu trúc hệ thống tài chính ngân hàng có nhiềm điểm tương đồng với Việt Nam (như đã phân tích ở trên).
Mục đích tổng quát/cuối cùng của nghiên cứu này là rút ra một số bài học kinh nghiệm từ quá trình cải cách hệ thống ngân hàng của Trung Quốc thời gian qua đển áp dụng cho quá trình cải cách hệ thống ngân hàng của Việt Nam trong thời gian sắp tới. Để thực hiện được mục đích này, nghiên cứu cũng xác định các mục tiêu trung gian/cụ thể thể hiện thông qua các câu hỏi nghiên cứu sau đây:
1/ Cải cách hệ thống ngân hàng ở Trung Quốc dựa trên cơ sở nào? (lý thuyết và thực tiễn kinh nghiệm quốc tế).
2/ Tại sao phải cải cách hệ thống ngân hàng Trung Quốc? (những nguyên nhân xuất phát từ nội tại hệ thống ngân hàng Trung Quốc, của nền kinh tế Trung Quốc nói chung và trong bối cảnh khu vực và quốc tế).
3/ Nội dung chính của cải cách hệ thống ngân hàng Trung Quốc trong giai đoạn 1990 đến nay là gì? Tác động của quá trình này?
4/ Việt Nam có thể học được những kinh nghiệm gì từ thực tiễn cải cách hệ thống ngân hàng ở Trung Quốc?
3. Phạm vi nghiên cứu
Về cơ sở lý luận, do cải cách hệ thống ngân hàng là một lĩnh vực rộng lớn, gồm nhiêu nội dung liên quan đến cả vấn đề pháp lý và thực tiễn thị trường cũng như tình hình cải cách các lĩnh vực kinh tế khác có liên quan, trong khuôn khổ của luận án này không thể đề cập, giải quyết hết các vấn đề trên. Luận án tập trung nghiên cứu các lý thuyết và khung chính sách cải cách hệ thống ngân hàng mang tính cấu trúc, trong đó đặc biệt tập trung vào nguyên nhân và các giải pháp xử lý những yếu kém/rủi ro căn bản của hệ thống ngân hàng thương mại (như vấn đề nợ xấu và vấn đề sở hữu chéo – đây cũng là những rào cản chủ yếu trong quá trình cải cách hệ thống ngân hàng ở Việt Nam hiện nay).
Về mặt thời gian, do lĩnh vực tài chính là một trong những lĩnh vực có sự biến đổi và phát triển nhanh chóng trong quá trình toàn cầu hóa kể từ thập niên 1990, để bảo đảm tính cập nhật và giá trị thực tiễn của kết quả nghiên cứu, phạm vi luận án lựa chọn tổng hợp và phân tích các kinh nghiệm trong mốc thời gian từ những năm 1990 cho đến nay.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận án xác định câu hỏi nghiên cứu là:
Những mô hình, chính sách và giải pháp pháp cải cách hệ thống ngân hàng nào tại Trung Quốc có thể được áp dụng cho quá trình tái cơ cấu hệ thống ngân hàng Việt Nam giai đoạn sắp tới như thế nào?
5. Cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu
Chuyên đề tập trung phân tích kinh nghiệm quốc tế liên quan đến vấn đề tái cấu trúc hệ thống ngân hàng trong khu vực và trên thế giới, trong đó đặc biệt tập trung vào trường hợp cải cách hệ thống ngân hàng của các quốc gia trong khu vực hoặc có những đặc điểm thể chế kinh tế tương đồng với nước ta, từ đó rút ra một số bài học kinh nghiệm và khuyến nghị chính sách cho Việt Nam.
Nghiên cứu sử dụng đồng thời nhiều cách tiếp cận như:
- Tiếp cận lịch sử và logic: Nghiên cứu lý thuyết và thực tiễn về mô hình và hoạt động của hệ thống ngân hàng của các nước trên thế giới được tiếp cận theo thứ tự về thời gian gắn với xem xét khi có những biến độ về kinh tế vĩ mô.
- Tiếp cận hệ thống và cấu trúc: không chỉ nghiên cứu nội tại về bản thân hệ thống mà còn bao gồm các nội dung nghiên cứu về sự tương tác, quan hệ giữa hệ thống ngân hàng với tổng thể nền kinh tế quốc dân, giữa hệ thống ngân hàng với các bộ phận của hệ thống tài chính.
Luận án sử dụng các phương pháp nghiên cứu phân tích so sánh quốc tế, tổng hợp mô hình lý thuyết và thực tiễn tái cơ cấu hệ thống/thị trường ngân hàng của các quốc gia, kết hợp giữa nghiên cứu định tính (phân tích chính sách) với kết quả một số nghiên cứu định lượng (để chứng minh/kiểm chứng cho các nhận định, kết luận). Các phân tích và bình luận của nghiên cứu này dựa trên cơ sở thông tin thu thập từ những nguồn chính thống và đáng tin cậy, các định nghĩa, khái niệm và mô hình phân tích được theo chuẩn mực quốc tế từ các tổ chức có uy tín như: Ngân hàng thế giới (WB), Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Bộ tiêu chuẩn của Ủy ban Basel… Trong nghiên cứu này, phương pháp phân tích tài liệu được xem như là một trong những phương pháp quan trọng sử dụng để phân tích các nhóm tài liệu:
(i) Các báo cáo, thống kê số liệu thường niên về tăng trưởng kinh tế, tiền tệ - đầu tư, dự trữ ngoại tệ, tài chính – ngân hàng,… (ii) Các tài liệu liên quan khác (các kết quả nghiên cứu của các học giả trong và ngoài nước trước đây, những tài liệu liên quan đến nền kinh tế và hệ thống ngân hàng của Việt Nam, Trung Quốc…).
6. Những đóng góp dự kiến của đề tài:
Hệ thống hoá và phân tích một số vấn đề lý luận và thực tiễn căn bản liên quan đến tái cấu trúc hệ thống ngân hàng tại một số quốc gia trên thế giới, trong đó đặc biệt đi sâu phân tích một số kinh nghiệm chủ yếu trong quá trình tái cơ cấu hệ thống ngân hàng Trung Quốc giai đoạn từ những năm 1990s đến nay, cũng như những xu hướng, thách thức tiếp tục cải cách thời gian tới; đối chiếu với đặc điểm hệ thống ngân hàng của Việt Nam để rút ra những khuyến nghị chính sách và đề xuất giải pháp tái cấu trúc hệ thống ngân hàng Việt Nam trong giai đoạn tới. Đề tài cũng tập trung vào những “khoảng trống nghiên cứu” hiện nay (như vấn đề tái cơ cấu hệ thống ngân hàng để chuẩn bị sẵn sàng và đáp ứng yêu cầu của xu hướng hội nhập tài chính, tiền tệ hơn là chỉ xử lý những yếu kém nội tại của hệ thống ngân hàng…).
Thứ nhất, góp phần hệ thống hoá những lý thuyết, quan điểm cơ bản về tái cấu trúc hệ thống ngân hàng có ảnh hưởng lớn đến định hướng chính sách và các giải pháp cụ thể trong tiến trình tái cấu trúc hệ thống ngân hàng của mỗi nước.
Thứ hai, phân tích sâu một số vấn đề lý luận và thực tiễn cơ bản liên quan đến tái cấu trúc ngân hàng trong bối cảnh đặc thù của nền kinh tế chuyển đổi như tại Việt Nam và Trung Quốc.
Thứ ba, phân tích và đánh giá thực trạng tái cấu trúc hệ thống ngân hàng của Trung Quốc, tổng kết những thành công, hạn chế của tiến trình này cũng như dự báo những cơ hội, thách thức trong thời gian tới. Trên cơ sở đó, rút ra một số kinh nghiệm và khuyến nghị chính sách cho quá trình tái cấu trúc hệ thống ngân hàng của Việt Nam trong giai đoạn tới.
7. Kết cấu của luận án:
Đầu tiên, chuyên đề sẽ rà soát, tổng hợp và hệ thống hóa một số lý luận cơ bản về cải cách hệ thống ngân hàng trên thế giới, trên cơ sở đó, tổng kết và đánh giá thực tiễn cải cách hệ thống ngân hàng tại một số quốc gia trên thế giới thời gian qua. Từ đó, nghiên cứu đối chiếu với những khó khăn, thách thức trong cải cách hệ thống ngân hàng Việt Nam hiện nay để rút ra một số khuyến nghị chính sách cho quá trình tái cấu trúc hệ thống ngân hàng Việt Nam thời gian tới.
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu về cải cách hệ thống ngân hàng trên thế giới, tại Trung Quốc và Việt Nam thời gian qua. Trên cơ sở đó xác định mục đích, đối tượng và phương pháp nghiên cứu của luận án; với mục tiêu đưa ra những hàm ý/khuyến nghị chính sách nhằm thúc đẩy tiến độ và nâng cao hiệu quả, đảm bảo tính bền vững của quá trình tái cấu trúc hệ thống các tổ chức tín dụng ở Việt Nam (đặt trong bối cảnh tái cấu trúc tổng thể nền kinh tế theo hướng phát triển nhanh và bền vững).
Chương 2: Hệ thống hóa một số vấn đề lý luận và thực tiễn về cải cách hệ thống ngân hàng trên thế giới, phân tích ưu điểm/hạn chế của từng trường phái tái cơ cấu và những giải pháp tái cơ cấu cụ thể mà các nước trên thế giới và trong khu vực đã áp dụng; trên cơ sở đó hệ thống hóa các giải pháp tái cần thiết cho
quá trình cải cách hệ thống ngân hàng nói chung cũng như đối với từng cầu phần của hệ thống.
Chương 3: Thông qua việc phân tích chính sách, phân tích thị trường nhằm đánh giá về quá trình và đặc điểm cải cách hệ thống ngân hàng của Trung Quốc, gắn với quá trình cải cách và phát triển của cả nền kinh tế nước này nói chung. Nghiên cứu tập trung đi sâu phân tích những tương đồng và khác biệt giữa hệ thống ngân hàng của Trung Quốc và Việt Nam; những ưu/nhược điểm của các chiến lược cải cách, nhóm giải pháp và giải pháp cải cách cụ thể; nguyên nhân của những thành công và tồn tại trong quá trình này ở Trung Quốc; những thách thức mà hệ thống ngân hàng Trung Quốc phải đối mặt trong thời gian tới….
Chương 4: dựa trên các kết quả phân tích trong Chương 1, Chương 2 và Chương 3, căn cứ phân tích đặc điểm thị trường ngân hàng của Việt Nam, khung khổ pháp lý và Đề án Tái cấu trúc hệ thống các tổ chức tín dụng đang triển khai hiện nay, luận án đề xuất một số hàm ý/khuyến nghị chính sách và giải pháp cụ thể đối với quá trình tái cấu trúc hệ thống ngân hàng của Việt Nam trong ngắn hạn cũng như trong trung và dài hạn.
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. Tình hình nghiên cứu về cải cách hệ thống ngân hàng trên thế giới
Trong số các nghiên cứu về khủng hoảng hệ thống ngân hàng trên thế giới, tiêu biểu nhất là Luc Laeven và Fabián Valencia (2012), theo đó khủng hoảng ngân hàng có tính hệ thống xảy ra khi có đủ 02 điều kiện: (i) những dấu hiệu đình trệ tài chính nghiêm trọng của hệ thống ngân hàng (được thể hiện thông qua những cuộc tháo chạy khỏi ngân hàng (bank run), tình trạng thua lỗ phổ biến của các ngân hàng và khó khăn thanh khoản); (ii) có những chính sách cạn thiệp sâu rộng để giải quyết tình trạng khó khăn của hệ thống. Đồng thời, những biện pháp can thiệp bao gồm ít nhất 03 trong số 06 giải pháp sau: (i) hỗ trợ thanh khoản ở quy mô lớn; (ii) chi phí tái cấu trúc ngân hàng (ít nhất 3% GDP); (iii) quốc hữu hóa các ngân hàng lớn; (iv) bảo lãnh ở quy mô lớn cho các khoản nợ của ngân hàng; (v) mua tài sản từ các tổ chức tài chính (ít nhất 5% GDP); (vi) đóng băng các khoản gửi tiết kiệm.
Thông lệ quốc tế hiện nay có hai các tiếp cận phổ biến về tái cấu trúc hệ thống ngân hàng. Cách thứ nhất, theo nghiên cứu của IMF (1999), tái cơ cấu hệ thống ngân hàng nhằm đạt được 03 mục tiêu: (i) Củng cố hiệu quả hoạt động của hệ thống ngân hàng thông qua việc bảo đảm khả năng thanh toán và khả năng sinh lời; (ii) Cải thiện năng lực thực hiện chức năng trung gian tài chính của hệ thống
ngân hàng; và (iii) Khôi phục niềm tin của công chúng. Cách thứ hai, theo nghiên cứu của Waxman (1998), tái cấu trúc nhân hàng có thể nhằm giải quyết vấn đề của một ngân hàng đổ vỡ ngày trong điều kiện của hệ thống ngân hàng đang hoạt động hiệu quả. Sự khác biệt giữa hai cách tiếp cận này là ở đối tượng tái cơ cấu là toàn bộ hệ thống ngân hàng hay chỉ những khâu yếu nhất của hệ thống này.
Nghiên cứu của Strauss-Kahn (2009) [131] cho rằng, khi các quốc gia đối mặt với khủng hoảng kinh tế và đang theo đuổi các chính sách khôi phục, tái cấu trúc hệ thống ngân hàng, đặc biệt là những ngân hàng yếu kém, là một trong những ưu tiên hàng đầu. Các dấu hiệu cho thấy hệ thống ngân hàng đang có vấn đề bao gồm: (i) Tốc độ tăng trưởng tín dụng cao hơn nhiều so với tốc độ tăng trưởng GDP; (ii) Vay nợ nước ngoài lớn trong khi dự trữ ngoại hối mỏng và rủi ro tỷ giá cao; (iii) Giá tài sản biến động lớn; (iv) Khả năng đánh giá tín dụng và quản lý rủi ro tín dụng của ngân hàng kém; thông tin không đầy đủ, thiếu minh bạch; và (v) Các quy định về hoạt động ngân hàng không phù hợp, lỏng lẻo; giám sát ngân hàng không hiệu quả.
Một số nghiên cứu khác của Goldstein và Turner (1996); Klingebiel và Caprio (1996) [91] cũng chỉ ra 3 nhóm nguyên nhân dẫn tới khủng hoảng của hệ thống ngân hàng. Thứ nhất, các yếu tố vi mô, gồm: (i) Các quy định và thực tiễn hoạt động ngân hàng yếu kém, đặc biệt là tình trạng thiếu vốn, vi phạm chính sách cho vay; (ii) Mâu thuẫn giữa chủ sở hữu và người điều hành, đặc biệt là các chính sách thưởng để khuyến khích cho vay mà không chú ý tới rủi ro có thể gặp phải; và (iii) Trình độ của nhân viên hạn chế, đặc biệt trong việc áp dụng công nghệ mới. Thứ hai, các yếu tố vĩ mô, như sự biến động mạnh về giá cả hoặc các yếu tố kinh tế vĩ mô như nền kinh tế tăng trưởng nóng. Thứ ba, các yếu tố có tính hệ thống, đặc biệt môi trường hoạt động không thuận lợi như: (i) Số lượng lớn các ngân hàng Nhà nước dẫn đến tình trạng bóp méo xu hướng cho vay, thu hút tiền gửi và cạnh tranh, cũng như hạn chế khả năng đa dạng hóa hoạt động của các ngân hàng; (ii) Chính phủ định hướng chặt chẽ về tín dụng làm hạn chế các ngân hàng phát triển kỹ năng đánh giá các khoản cho vay; (iii) Hệ thống pháp luật không đầy đủ làm hạn chế hiệu quả của hệ thống ngân hàng (như về chính sách an toàn và minh bạch thông tin); (iv) Các quy định và cơ chế giám sát
không đầy đủ và hiệu quả; và (v) Thị trường chứng khoán chưa phát triển, đặc biệt là đối với các chứng khoán dài hạn (khi đó, các ngân hàng sẽ phải cung cấp các khoản vay dài hạn và tập trung quá nhiều rủi ro).
Trong số các nghiên cứu về các biện pháp cải cách hệ thống ngân hàng trên thế giới thời gian qua, tiêu biểu nhất là 02 nghiên cứu của Dziobek và Pazarbasioglu (1997, 1998) đều nghiên cứu trên một tập hợp gồm 24 quốc gia đại diện từ cac khu vực khác nhau trên thế với và với trình độ phát triển hệ thống tài chính – ngân hàng khác nhau [59, 60].
Khảo sát chính sách tái cấu trúc hệ thống ngân hàng tại 24 quốc gia trong những năm 1980s và những năm đầu 1990s, Dziobek và Pazarbasioglu (1998) đã liệt kê những chính sách cụ thể được áp dụng phổ biến tại các nước: (i) Chính phủ bơm vốn hoặc mua cổ phiếu để nắm giữ quyền điều hành các ngân hàng thương mại (quốc hữu hóa một phần); (ii) Đóng cửa các ngân hàng yếu kém; (iii) Sáp nhập các ngân hàng trong nước với ngân hàng nuớc ngoài; (iv) Sáp nhập các ngân hàng trong nuớc với nhau; (v) Thành lập công ty quản lý tài sản; (vi) Thay đổi cơ cấu sở hữu ngân hàng thông qua tư nhân hóa. Đồng thời nghiên cứu cũng cho rằng không có chính sách đơn lẻ nào chứng tỏ tính ưu việt tới hiệu quả tái cơ cấu so với các chính sách khác [60]. Bản thân hiệu quả của từng chính sách phụ thuộc vào các yếu tố thể chế và pháp lý đặc thù của mỗi nước. Do vậy việc sử dụng một tổ hợp chính sách được coi là sự lựa chọn hợp lý cho việc tái cơ cấu hệ thống ngân hàng của các quốc gia.
Trong một nghiên cứu trước đó, Dziobek và Pazarbasioglu (1997) đã phân tích một tập hợp mẫu đại diện gồm 24 quốc gia trên 6 khu vực lãnh thổ trong khoảng thời gian từ 1980 đến 1995, từ đó phát hiện những yếu tố tạo nên thành công của một quá trình tái cấu trúc hệ thống ngân hàng [59]. Theo nghiên cứu, 24 quốc gia được lựa chọn đã sử dụng trung bình 8 công cụ để thực hiện tái cấu trúc. Trong đó, các công cụ tốt nhất được nhận diện liên quan đến những chính sách sau: vai trò của ngân hàng trung ương trong việc dẫn đầu công cuộc chuyển đổi tại các nước; kế hoạch xử lý nợ xấu; chính sách đóng cửa các TCTD thông qua mua bán, sáp nhập hoặc cho phá sản; tư nhân hóa; tái cấu trúc doanh nghiệp; các chính sách khuyến khích đối với nhà quản lý và chủ sở hữu.