Phương Hướng Tiếp Tục Đổi Mới Cải Cách Hành Chính Trong Lĩnh Vực Đầu Tư Nước Ngoài Ở Nước Ta

còn các ngành, lĩnh vực có khả năng sinh lời thấp, rủi ro cao không được sự quan tâm của các nhà đầu tư nước ngoài.

- Nhận thức, quan điểm về các chủ trương, giải pháp phân cấp quản lý nhà nước giữa Chính phủ và chính quyền cấp tỉnh chưa rò ràng, rành mạch, thiếu nhất quán, lo ngại phân cấp mạnh dẫn đến tình trạng cục bộ, cát cứ, phân tán. Trong tổ chức chỉ đạo còn thiếu quyết tâm, mạnh dạn từ xây dựng, ban hành thể chế, chính sách đến tổ chức thực hiện; chưa chú trọng tổng kết, đánh giá, rút kinh nghiệm. Hệ thống pháp luật thiếu đồng bộ, chưa đáp ứng với yêu cầu của phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong tình hình mới.

- Theo một chuyên gia kinh tế cao cấp, chủ trương phân cấp đầu tư cho các địa phương là đúng hướng và cần thiết. Tuy nhiên, mọi việc đang trở nên nghiêm trọng khi số lượng các dự án sân golf, thép, lọc dầu, bất động sản… được cấp phép tăng đột biến. Với số lượng dự án chủ yếu trong các lĩnh vực đòi hỏi nhiều năng lượng, sử dụng nhiều tài nguyên, ít tạo ra hàng hóa … tăng mạnh trong năm vừa qua, phải chăng đang có sự lợi dụng từ phía các nhà đầu tư nước ngoài về giá lao động rẻ, các quy định về môi trường còn lỏng lẻo… và đặc biệt là quy hoạch phát triển địa phương, vùng miền đang rất thiếu và yếu.

2.2.3. Về đội ngũ cán bộ, công chức

Thời gian qua, bên cạnh những kết quả đã đạt được, đội ngũ cán bộ, công chức để phục vụ hội nhập kinh tế quốc tế và nâng cao năng lực để thu thút đầu tư nước ngoài vẫn còn nhiều bất cập, hẫng hụt về một số mặt như:

+ Chuyên môn, ngoại ngữ của cán bộ, nhân viên làm công tác xúc tiến đầu tư còn hạn chế. Tri thức và năng lực quản lý nhà nước về xã hội, kinh tế thị trường, pháp luật, hành chính, kỹ năng thực thi công vụ cũng như khả năng vận dụng khoa học công nghệ hiện đại trong công tác quản lý... còn kém.

+ Tinh thần trách nhiệm, ý thức tổ chức kỷ luật của một bộ phận cán bộ, công chức còn yếu, còn có hiện tượng quan liêu, tham nhũng gây nên

những tiêu cực trong thi hành công vụ, làm giảm hiệu lực của bộ máy nhà nước, ảnh hưởng xấu đến môi trường đầu tư-kinh doanh.

+ Đội ngũ công chức tuy được đào tạo lại nhưng còn hạn chế, đông về số lượng, nhưng hạn chế về trình độ chuyên môn, tính chuyên nghiệp chưa cao nhất là kiến thức quản lý hiện đại; việc áp dụng tin học trong quản lý còn đơn lẻ, chưa mang tính phổ cập.

Báo cáo đánh giá về Tổng số cán bộ, công chức, viên chức thôi việc từ tháng 7 năm 2003 đến ngày 31 tháng 12 năm 2007 là

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 101 trang tài liệu này.

16.314 người, chiếm tỷ lệ gần 1,0% trong tổng số cán bộ, công chức, viên chức, trong đó: người giữ chức vụ lãnh đạo có 310 người, chiếm tỷ lệ 1,9% trong tổng số cán bộ, công chức, viên chức thôi việc, gồm: Cấp Vụ và tương đương có 06 người chiếm tỷ lệ 0,04%; Cấp Phòng và tương đương có 231 người chiếm tỷ lệ 1,42%; Giám đốc, Phó Giám đốc trung tâm trực thuộc (đơn vị sự nghiệp của Nhà nước) có 38 người chiếm tỷ lệ 0,23% [39].

Nguyên nhân:

Cải cách hành chính trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài ở nước ta - 9

Nguyên nhân của hiện tượng trên là:

Một là, môi trường, điều kiện làm việc của một số cơ quan, đơn vị của Nhà nước chưa thật sự tạo cơ hội để cán bộ, công chức, viên chức phát huy tốt năng lực.

Hai là, tiền lương và thu nhập của cán bộ, công chức, viên chức chưa cao bằng tiền lương thu nhập của người lao động cùng trình độ làm việc trong doanh nghiệp nhà nước, khu vực tư nhân, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài.

Ba là, các cơ quan, đơn vị chưa thực sự quan tâm nhiều đến công tác xây dựng đội ngũ chuyên gia giỏi của từng lĩnh vực.

Bốn là, công tác giáo dục chính trị tư tưởng nâng cao nhận thức cho cán bộ, công chức, viên chức chưa thực sự tạo được tư tưởng yên tâm làm việc trong khu vực nhà nước.

Năm là, cải cách hành chính đụng chạm đến bộ máy, con người nên rất khó khăn, phức tạp; mặt khác thói quen, nếp nghĩ, cách làm của đội ngũ cán bộ, công chức và của bản thân bộ máy hành chính còn mang nặng dấu ấn của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp không dễ dàng thay đổi.

Quy trình làm việc của cán bộ, công chức nhìn chung còn thủ công, thiếu tính chuyên nghiệp. Họp hành nhiều, giấy tờ hành chính gia tăng, thẩm quyền và trách nhiệm giải quyết công việc của từng cán bộ, công chức không rò; đặc biệt khâu phối hợp giữa các cơ quan hành chính nhà nước trong quá trình giải quyết công việc còn yếu.

Trang bị thiết bị, điều kiện làm việc của cơ quan hành chính nhà nước nói chung còn nhiều hạn chế. Sau hơn một nửa thế kỷ xây dựng và củng cố chính quyền vẫn còn tới 10% chính quyền cấp xã chưa có trụ sở làm việc, khoảng 30% trụ sở cấp xã là nhà cấp 4, không bảo đảm điều kiện làm việc và giải quyết công việc của dân.

Sáu là, chế độ công vụ, công chức mới chưa hoàn chỉnh, đội ngũ cán bộ công chức còn chưa ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ quản lý mới trong quá trình chuyển đổi: chế độ tiền lương vẫn chưa đảm bảo đời sống của cán bộ, công chức và gia đình họ. Điều này tác động không nhỏ đến động cơ và thái độ làm việc, đến những biểu hiện tiêu cực như: không an tâm làm việc, móc ngoặc, trục lợi, nhũng nhiễu trong một bộ phận cán bộ, công chức.

2.2.4. Về cải cách tài chính công

Bên cạnh những kết quả đã đạt được, trong quá trình thực hiện cải cách tài chính công ở Việt Nam còn tiềm ẩn những yếu tố chưa ổn định:

Thứ nhất: Chất lượng, hiệu quả và tính bền vững của sự phát triển còn thấp; nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển lớn, nhưng mức đáp ứng vốn còn hạn chế, nhiều tiềm năng vốn trong nước và vốn nước ngoài chưa được khai thác tốt.

Thứ hai: Vốn đầu tư thực hiện tăng, nhưng tỷ trọng vốn đầu tư nước ngoài trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội có xu hướng giảm do tốc độ tăng vốn

đầu tư nước ngoài thực hiện chậm hơn tốc độ tăng vốn đầu tư của các thành phần kinh tế khác.

Thứ ba: Cơ cấu đầu tư nước ngoài còn mất cân đối cả về cơ cấu vùng và ngành. Đầu tư vào lĩnh vực dịch vụ có xu hướng giảm sút so với các năm trước. Mặc dù, Chính phủ đã áp dụng chính sách ưu đãi, nhưng đầu tư nước ngoài vào các vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn chưa đáng kể.

Chưa chú ý khai thác vốn thông qua các "kênh" gián tiếp và thông qua thị trường vốn. Phạm vi đánh thuế còn hạn hẹp, hệ thống thuế chưa bao quát hết các nguồn thu nhập, bỏ sót nguồn thu và đối tượng nộp thuế.

Nguyên nhân:

Một là, trong quá trình hoàn chỉnh hệ thống pháp luật theo hướng tiến tới một mặt bằng pháp lý chung đã có những thay đổi bất lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài. Chưa có sự kết hợp chặt chẽ giữa chiến lược phát triển các ngành kinh tế với chiến lược tài chính, chiến lược thuế... dẫn đến sự chắp vá trong việc hình thành cơ chế, chính sách; đồng thời làm cho chính sách thường xuyên thay đổi, gây mất ổn định trong môi trường đầu tư.

Chẳng hạn, việc thi hành Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp đã giảm ưu đãi về thuế, nhất là đối với các dự án đầu tư vào khu công nghiệp, khu chế xuất tại các trung tâm đô thị lớn và các dự án thuộc danh mục đặc biệt khuyến khích đầu tư.

Việc giảm ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp đối với các dự án đầu tư nước ngoài cũng như chính sách đối với ô-tô, xe máy đã làm cho nhiều nhà đầu tư lo ngại về sự thiếu nhất quán của chính sách đầu tư nước ngoài của nước ta, đồng thời, cản trở việc quyết định đầu tư của một số dự án, trong đó có những dự án quy mô lớn, sử dụng công nghệ cao.

Hai là, nhiều dự án đầu tư vào các lĩnh vực dịch vụ gặp ách tắc do chủ trương chưa rò ràng, các vướng mắc trong công tác quy hoạch ngành chưa

được tháo gỡ, cản trở các nhà đầu tư. Việc suy giảm đầu tư vào lĩnh vực dịch vụ đã làm hạn chế kết quả thu hút đầu tư nước ngoài.

Ba là, nhận thức về vai trò của tài chính và thị trường vốn trong việc mở đường, thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội còn hạn chế, nên tư duy trong hoạch định chính sách tài chính và phát triển thị trường tài chính chậm đổi mới, thiếu tính đột phá trong hoạch định chính sách.

Bốn là, công tác phân tích dự báo chưa được coi trọng đúng mức khi nghiên cứu hoạch định chính sách, dẫn đến thường xuyên phải bổ sung, sửa đổi, tạo ra sự không đồng bộ, không nhất quán.

Tư tưởng bao cấp, tâm lý muốn được Nhà nước bảo hộ còn nặng nề; thói quen và dấu ấn quản lý theo kiểu cũ vẫn tồn tại và không dễ xóa bỏ đã gây cản trở không nhỏ cho quá trình đổi mới trong lĩnh vực tài chính.

Năm là, chưa kiên quyết trong việc đẩy nhanh tiến trình sắp xếp, chuyển đổi sở hữu và cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước làm tiến trình cổ phần hóa chậm so với kế hoạch, nhất là các doanh nghiệp nhà nước lớn, làm ảnh hưởng đến sự phát triển của nhiều lĩnh vực, đặc biệt là làm hạn chế sự phát triển của thị trường chứng khoán. Chưa kiên quyết trong việc chuyển nhanh các đơn vị sự nghiệp sang thực hiện cơ chế tự chủ tài chính. Triển khai thực hiện cải cách hành chính trong ngành tài chính tiến triển chậm, công tác tổ chức, đào tạo bồi dưỡng đội ngũ cán bộ có năng lực quản lý trong các lĩnh vực tài chính đã được tăng cường, nhưng vẫn chưa đáp ứng yêu cầu đòi hỏi thực tiễn.

Sáu là, công tác quy hoạch còn bất hợp lý, còn nặng về xu hướng bảo hộ sản xuất trong nước, chưa kịp thời điều chỉnh để phù hợp với các cam kết quốc tế. Danh mục dự án quốc gia kêu gọi đầu tư nước ngoài còn thiếu thông tin và chưa bao quát hết nhu cầu kêu gọi đầu tư nước ngoài trong giai đoạn mới.

Mặc dù trong Luật và các nghị định liên quan đến đầu tư nước ngoài không hạn chế về hình thức và lĩnh vực tham gia của đầu tư nước ngoài trong một số ngành, nhưng gần đây, một số quy hoạch ngành được phê duyệt, không ít văn bản của một số ngành ban hành đã hạn chế sự tham gia của đầu tư nước ngoài. Việc ban hành Nghị định 158/2003/NĐ-CP về thuế VAT và Nghị định 164/2003/NĐ-CP về thuế thu nhập doanh nghiệp là bước tiến mới trong lộ trình xây dựng mặt bằng pháp lý chung cho đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài, nhưng đã làm giảm ưu đãi của đầu tư nước ngoài so với trước đây, làm cho các nhà đầu tư lo ngại về sự thiếu nhất quán của chính sách đầu tư.

Chương 3‌

PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP

TIẾP TỤC ĐỔI MỚI CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY


3.1. Phương hướng tiếp tục đổi mới cải cách hành chính trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài ở nước ta

Để cụ thể hóa chủ trương tăng cường thu hút và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, từ thực tiễn cho thấy:

Một là, cần thống nhất nhận thức và có cách nhìn nhạy bén về kinh tế, chính trị, nắm bắt thời cơ, thuận lợi, thấy rò được những khó khăn, thách thức từ bên trong cũng như bên ngoài để kịp thời đề ra được chủ trương, đường lối đúng đắn, tập trung lực lượng, giải quyết dứt điểm các vấn đề nảy sinh.

Chủ trương, đường lối khi đã đề ra phải được quán triệt thông suốt, đầy đủ từ trung ương đến địa phương và phải được cụ thể hóa kịp thời, tạo ra sự thống nhất và quyết tâm cao trong việc tổ chức thực hiện để đảm bảo thành công.

Hai là, các chủ trương, phương hướng lớn phải được nhanh chóng thể chế hóa thành pháp luật, cơ chế, chính sách một cách đồng bộ, tạo đủ hành lang pháp lý cho việc thực hiện.

Pháp luật và văn bản liên quan về đầu tư nước ngoài phải minh bạch, rò ràng và phù hợp với thông lệ quốc tế có chú ý tới điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của nước ta.

Cơ chế, chính sách phải đồng bộ thể hiện tính khuyến khích và cạnh tranh cao so với các nước trong khu vực, có tính tới quy luật cạnh tranh và xu hướng tự do hóa trong thu hút đầu tư phù hợp với tiến trình hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, đồng thời tạo điều kiện, khuyến khích sự chủ động, sáng tạo của người thực hiện.

Ba là, công tác chỉ đạo, điều hành phải thông suốt, thống nhất, có nền nếp, kỷ cương trong bộ máy công quyền, tạo niềm tin và độ tin cậy đối với nhà đầu tư, đặc biệt đối với người đứng đầu.

Phải luôn luôn hướng về nhà đầu tư và doanh nghiệp để nhanh chóng tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, tạo thuận lợi cho hoạt động đầu tư.

Mọi thủ tục hành chính phục vụ cho hoạt động đầu tư phải đơn giản, gọn nhẹ, không làm tăng chi phí, không gây phiền hà, sách nhiễu cho nhà đầu tư.

Bốn là, công tác cán bộ cần luôn được xem trọng để có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng thường xuyên, liên tục nhằm xây dựng tổ chức bộ máy, đội ngũ cán bộ làm công tác kinh tế đối ngoại không những tinh thông nghiệp vụ, am hiểu về kinh tế đối ngoại, mà còn trong sạch về phẩm chất, đạo đức, vì đây là cầu nối giữa nhà đầu tư với nước chủ nhà, là nguyên nhân của mọi nguyên nhân thành công hay thất bại.

Năm là, tùy điều kiện và hoàn cảnh cụ thể, các cơ quan quản lý đầu tư các cấp chủ động vận dụng, tổ chức triển khai, giám sát và đánh giá việc thực hiện các nghị quyết, chủ trương, chính sách, pháp luật nhà nước về đầu tư sao cho hiệu quả, đảm bảo hài hòa mối quan hệ giữa nhà đầu tư, nhà quản lý, giữa lợi ích của nhà nước với lợi ích của nhà đầu tư trong quá trình phát triển kinh tế-xã hội bền vững trên địa bàn và trên cả nước

3.2. Một số giải pháp tiếp tục đổi mới cải cách hành chính trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài ở nước ta

Để triển khai thực hiện việc thu hút và sử dụng hiệu quả đầu tư nước ngoài thì cần thực hiện các giải pháp sau đây.

3.2.1. Cải cải thể chế

- Tiếp tục rà soát pháp luật, chính sách để sửa đổi hoặc loại bỏ các điều kiện áp dụng ưu đãi đầu tư không phù hợp với cam kết của Việt Nam với WTO và có giải pháp đảm bảo quyền lợi của nhà đầu tư liên quan.

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 27/06/2022