nghiệm tổ chức nhà nước trên thế giới (Thang Văn Phúc - Nguyễn Đăng Thành, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2005); Nhân dân giám sát các cơ quan dân cử ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới (Đặng Đình Tân, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006); Kiểm soát quyền lực nhà nước - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn ở Việt Nam hiện nay (Trịnh Thị Xuyến, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2008); Xây dựng cơ chế pháp lý bảo đảm sự kiểm tra, giám sát của nhân dân đối với hoạt động của bộ máy Đảng, Nhà nước và các thiết chế tổ chức trong hệ thống chính trị (Đề tài KX 10-07, Đào Trí Úc chủ nhiệm); Xây dựng cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện nay (Đề tài cấp Bộ năm 2008, mã số B08-13, Lưu Văn Quảng chủ nhiệm); Tổ chức và kiểm soát quyền lực nhà nước (Thái Vĩnh Thắng, Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2011); Phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà nước với việc sửa đổi Hiến pháp 1992 (Trần Ngọc Đường, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2012); Từ Nhà nước điều hành sang Nhà nước kiến tạo phát triển, (Đinh Tuấn Minh, Phạm Thế Anh, Nxb Tri Thức, Hà Nội, 2016); Kiểm soát quyền lực nhà nước (Nguyễn Đăng Dung, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2017); Cơ chế pháp lý kiểm soát quyền lực nhà nước trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam (Nguyễn Minh Đoan, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2018).
Ngoài ra, nghiên cứu về kiểm soát quyền lực nhà nước còn được thể hiện trong một số luận án, luận văn và các bài báo khoa học: Hồ Việt Hạnh (2005), Tam quyền phân lập ở Nhật Bản, Luận án tiến sĩ Chính trị học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh; Vũ Duy Tú (2016), Lý thuyết phân quyền: giá trị tham khảo trong xây dựng và hoàn thiện bộ máy nhà nước pháp quyền Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến sĩ Chính trị học, Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội; Nguyễn Quốc Hùng (2016), Kiểm soát quyền lực tư pháp trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Luận án tiến sĩ Luật học, Học viện Khoa học xã hội; Nguyễn Đăng Dung, Quyền lực nhà nước thống nhất, nhưng có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa 3 quyền: lập pháp, hành pháp và tư pháp, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, 2015; Trần Ngọc Đường, Kiểm soát quyền lực nhà nước trong xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu lập
pháp, 2015; Phan Xuân Sơn (2017), Kiểm soát quyền lực trong cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ”, Tạp chí Cộng sản, số 902 (12/2017).
Các công trình nghiên cứu nêu trên đã làm rò một số nội dung cơ bản về kiểm soát quyền lực nhà nước:
Thứ nhất, phân tích các quan điểm, tư tưởng về kiểm soát quyền lực nhà nước, về lý thuyết phân quyền của các nhà tư tưởng tư sản trong lịch sử; nghiên cứu thực tiễn vận dụng các lý thuyết đó trong việc tổ chức và thực thi quyền lực nhà nước ở các quốc gia tư sản hiện nay như Anh, Pháp, Mỹ, Đức, Nhật Bản,… Trên cơ sở phương pháp luật học so sánh và chính trị học so sánh, các tác giả đã tìm kiếm và chỉ ra các hạt nhân hợp lý, các giá trị tham khảo cho Việt Nam trong việc tổ chức và thực thi quyền lực nhà nước và kiểm soát quyền lực nhà nước. Những kinh nghiệm được khai thác chủ yếu ở khía cạnh tiếp thu các giá trị hợp lý của lý thuyết phân quyền để xây dựng “cơ chế vận hành quyền lực có cơ cấu hợp lý, trình tự chặt chẽ, chế ước hữu hiệu” [66, tr.150]. Ngoài ra, những giá trị tham khảo về giới hạn quyền lực bằng hiến pháp, xây dựng cơ chế kiểm soát quyền lực thông qua bầu cử, thông qua vai trò các tổ chức của xã hội dân sự, báo chí truyền thông, thông qua chức năng giám sát của quốc hội, thanh tra chính phủ, xét xử của tòa án,… cũng được các tác giả đề cập ở những mức độ khác nhau.
Thứ hai, các công trình nghiên cứu đã từng bước làm rò hơn tính tất yếu, khái niệm, nội dung và các phương thức kiểm soát quyền lực nhà nước.
Các tác giả cho rằng, kiểm soát quyền lực nhà nước là vấn đề phức tạp, có nhiều cách hiểu rộng, hẹp khác nhau. Theo nghĩa rộng, kiểm soát quyền lực nhà nước liên quan đến toàn bộ quá trình “thiết kế, tổ chức và thực thi quyền lực nhà nước đúng mục đích, hiệu quả nhất”, theo nghĩa hẹp, kiểm soát quyền lực nhà nước là “toàn bộ các cách thức, quy trình, quy định mà dựa vào đó nhà nước và xã hội có thể ngăn chặn, loại bỏ những hành động sai trái của nhà nước, phát hiện và điều chỉnh việc thực thi quyền lực, đảm bảo mục đích và hiệu quả của quyền lực nhà nước” [107, tr.36].
Trên cơ sở nghiên cứu lý thuyết và tham khảo mô hình kiểm soát quyền lực
Có thể bạn quan tâm!
- Các tổ chức chính trị - xã hội trong việc kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện nay - 1
- Các tổ chức chính trị - xã hội trong việc kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện nay - 2
- Những Nội Dung Đã Được Đề Cập Có Ý Nghĩa Đối Với Đề Tài
- Tính Tất Yếu Của Kiểm Soát Quyền Lực Nhà Nước
- Giới Hạn Quyền Lực Nhà Nước Bằng Hiến Pháp Và Pháp Luật
Xem toàn bộ 195 trang tài liệu này.
của các nước trên thế giới, các tác giả khẳng định kiểm soát quyền lực nhà nước là tất yếu khách quan, xuất phát từ “bản chất của quyền lực nhà nước là thuộc về nhân dân”, “quyền lực nhà nước được ủy quyền nên tiềm ẩn nguy cơ tha hóa”, đặc trưng của quyền lực nhà nước là “mang tính độc quyền cưỡng chế”, do “bản tính vị kỉ”, “giới hạn về mặt trí tuệ” của con người nên có khả năng phạm sai lầm trong thực thi quyền lực [23], [66], [107]. Mục đích của việc kiểm soát quyền lực nhà nước là nhằm ngăn chặn sự tha hóa quyền lực, hạn chế tính độc tài, độc đoán và nguy cơ sai lầm, qua đó đảm bảo tính “đúng đắn”, “hiệu lực”, “hiệu quả” trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước vì mục tiêu phục vụ nhân dân, phục vụ xã hội.
Các công trình nghiên cứu cũng chỉ ra các phương thức cơ bản để kiểm soát quyền lực nhà nước, trong đó nhấn mạnh hai phương thức cơ bản: kiểm soát quyền lực nhà nước từ bên trong và kiểm soát quyền lực nhà nước từ bên ngoài. Chẳng hạn, Nguyễn Đăng Dung, trong công trình “Kiểm soát quyền lực nhà nước” đã chỉ ra một số phương thức cơ bản để kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam là: 1) Giới hạn quyền lực nhà nước bằng Hiến pháp; 2) Bầu cử; 3) Phân chia/phân công, phân nhiệm và tự kiểm tra bên trong theo cơ chế kiềm chế và đối trọng; 4) Xét xử của Tòa án; 5) Tự do báo chí; 6) Sự công khai, minh bạch của chính quyền; 7) Giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội” [23]. Tương tự, Phan Xuân Sơn, trong bài viết Kiểm soát quyền lực trong cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ” cũng xác định các phương thức cơ bản để kiểm soát quyền lực nhà nước là: 1) Bầu cử; 2) Giới hạn quyền lực nhà nước bằng Hiến pháp; 3) Kiểm soát lẫn nhau giữa các cơ quan nhà nước; 4) Kiểm soát của các cơ quan tư pháp đối với quyền lực nhà nước; 5) Nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước [82].
Thứ ba, đánh giá thực trạng tổ chức, vận hành của các chủ thể trong việc kiểm soát quyền lực nhà nước và các cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện nay. Một số công trình đã có những nghiên cứu trực tiếp vào các khía cạnh khác nhau của vấn đề kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện nay trên tất cả các lĩnh vực: lập pháp, hành pháp, tư pháp. Kết quả nghiên cứu của các công trình
này đều cho thấy, các phương thức, cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam chưa thực sự có hiệu lực, hiệu quả; khả năng ngăn chặn tình trạng tha hóa quyền lực, tình trạng lạm quyền, độc tài độc đoán chưa cao. Các cơ chế thực hiện sự kiểm soát quyền lực của nhân dân và các lực lượng xã hội còn mang tính hình thức, trên thực tế khó triển khai thực hiện, kể cả kiểm soát quyền lực từ bên trong bộ máy nhà nước cũng chưa được thực hiện nghiêm túc và hiệu quả. Đây cũng là nguyên nhân dẫn đến tình trạng lạm quyền, tham ô, tham nhũng ngày càng gia tăng, ảnh hưởng đến quyền làm chủ của nhân dân và sự phát triển của đất nước.
Thứ tư, trên cơ sở phân tích thực trạng, các công trình nghiên cứu đã đề xuất một số giải pháp nhằm xây dựng, hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực ở nước ta hiện nay. Các giải pháp được đề xuất khá toàn diện trên nhiều lĩnh vực, từ các giải pháp mang tính tổng thể như đổi mới hệ thống chính trị, cải cách bộ máy nhà nước, tăng cường và mở rộng dân chủ XHCN, đến các giải pháp cụ thể để xây dựng cơ chế kiểm soát quyền lực có hiệu quả. Các giải pháp mà các nhà khoa học đề xuất đã góp phần cung cấp cơ sở lý luận, luận chứng, luận cứ cho việc đổi mới hệ thống chính trị và phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở nước ta hiện nay.
1.2. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ CÁC TỔ CHỨC CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI VÀ VIỆC KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC CỦA CÁC TỔ CHỨC CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI TRÊN THẾ GIỚI
Nghiên cứu về các tổ chức chính trị - xã hội và việc kiểm soát quyền lực nhà nước của các tổ chức chính trị - xã hội ở các nước trên thế giới rất được quan tâm, các công trình nghiên cứu chủ yếu tập trung ở Mỹ và các nước Châu Âu, nơi có thực tiễn hoạt động sôi nổi của các tổ chức này. Cần phải nói thêm rằng, quan niệm về các tổ chức chính trị - xã hội ở các nước trên thế giới có một số điểm khác so với Việt Nam. Thứ nhất, các tổ chức chính trị - xã hội ở các quốc gia khác nhau, có nhiều tên gọi khác nhau như: các nhóm lợi ích, các nhóm gây áp lực, các nhóm vận động hành lang, các hiệp hội, các nghiệp đoàn, các tổ chức xã hội,… Thứ hai, về số lượng, tính chất của các tổ chức này rất đa dạng, phong phú, chúng hoạt động ở tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, thu hút nhiều thành phần dân cư tham gia và có
vai trò quan trọng trong đời sống chính trị của các quốc gia này.
Nghiên cứu về các nhóm lợi ích được đề cập từ khá sớm, James Madison trong tác phẩm The Federalist Papers (Người Liên bang) đã bàn về sự tồn tại khách quan và vai trò của các nhóm lợi ích trong nền chính trị Mỹ. Ông xem việc các cá nhân có lợi ích tương đồng có xu hướng tập hợp với nhau thành các nhóm là điều tự nhiên. Sự tồn tại của các nhóm lợi ích đa dạng, phong phú là thể hiện quyền tự do của công dân, đồng thời, là công cụ quan trọng để “bẻ gãy và kiểm soát được sự lộng hành của phe phái”, khắc phục nan giải của nền dân chủ đại diện, đảm bảo hệ thống chính trị hoạt động có hiệu quả.
Trong tác phẩm Democracy in America (1835 - 1840), Alexis de Tocqueville từ sự quan sát của mình đã khẳng định sự tồn tại tất yếu và phổ biến của các nhóm lợi ích, các hiệp hội trong nền chính trị Mỹ ở giai đoạn ban đầu. Sự hình thành các hiệp hội, các nhóm lợi ích bắt nguồn từ việc các cá nhân có chung quan điểm sẽ có xu hướng kết hợp lại với nhau thành một tổ chức. Ông chỉ ra rằng ở Mỹ các nhóm lợi ích tồn tại đa dạng, hoạt động sôi nổi và đạt được nhiều thành công hơn bất kỳ quốc gia nào vào thời điểm đó. Thông qua việc tham gia vào các nhóm lợi ích, một mặt, các cá nhân sẽ gia tăng được quyền lực, sức ảnh hưởng của mình; mặt khác, các tổ chức ngày càng lớn mạnh sẽ gây chú ý và buộc chính quyền phải có những ưu tiên nhất định. Các nhóm lợi ích thúc đẩy sự tham gia của người dân vào đời sống chính trị, là bộ phận chủ yếu của xã hội dân sự.
Đến thời kỳ hiện đại, số lượng các tác phẩm nghiên cứu về các nhóm lợi ích tăng lên nhanh chóng. Các công trình nghiên cứu tập trung vào hai hướng chính: làm rò các vấn đề lý luận chung về nhóm lợi ích và vai trò của các nhóm lợi ích trong việc tác động đến chính sách công, kiểm soát quyền lực nhà nước.
Ở hướng nghiên cứu thứ nhất, có thể kể đến một số công trình tiêu biểu là: Dahl, Một giới thiệu cho lý thuyết dân chủ (A Preface to Democratic Theory, 1956); Almond, Nghiên cứu so sánh các nhóm lợi ích và quá trình chính trị (Comparative Study of Interest Groups and the Political Process, 1958); Wilson, Graham, Các nhóm lợi ích (Interest groups,1990); Putnam, Đồng điệu, lạc điệu: Sự biến mất lạ kỳ
của vốn xã hội ở Mỹ (Tuning In, Tuning Out: The Strange Disappearance of Social Capital in America, 1995); Berry, J.M, Xã hội nhóm lợi ích (The Interest Group Society, 2009); Halpin, Darren R. and Anthony J. Nownes, Các nhóm lợi ích trong nền chính trị Mỹ (Interest Groups in American Politics, 2013).
Thông qua các nghiên cứu của mình, các tác giả đã góp phần làm rò một số vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến các nhóm lợi ích như quan niệm, nguyên nhân hình thành, đặc điểm, vị trí, vai trò, phân loại,… Cụ thể:
- Các công trình nghiên cứu đã góp phần làm rò nguồn gốc hình thành các nhóm lợi ích. Các tác giả đều nhấn mạnh sự tồn tại của các lợi ích là một tất yếu khách quan, các nhóm lợi ích hình thành một cách tất yếu từ các các cá nhân có chung lợi ích và tồn tại trong tất cả các xã hội, chúng là bộ phận không thể thiếu trong hệ thống chính trị của các quốc gia. Bàn về nguồn gốc của các nhóm lợi ích, Wilson và Graham K. trong tác phẩm Interest groups (Các Nhóm lợi ích) đã cho rằng, hoạt động của con người luôn nhằm mục đích đạt được lợi ích, do đó, việc các chủ thể có cùng lợi ích liên kết lại với nhau là tất yếu; chính “xuất phát từ nhu cầu lợi ích và khát vọng đạt được lợi ích mà các chủ thể lợi ích tự nguyện liên kết, tập hợp lại với nhau và hình thành nên các nhóm lợi ích trong xã hội” [128].
- Các công trình nghiên cứu cũng làm rò quan niệm về các nhóm lợi ích. Mặc dù còn nhiều cách tiếp cận, nhiều quan điểm khác nhau về vấn đề này, nhưng các tác giả đều thống nhất ở những nội dung cơ bản: Nhóm lợi ích là sự tập hợp của các tổ chức hay các cá nhân, thường được thành lập một cách chính thức trên cơ sở chia sẻ một hay nhiều mối quan tâm nhằm ảnh hưởng đến chính sách công hoặc lĩnh vực mình quan tâm. Như vậy, nhóm lợi ích được phân biệt với các bộ phận khác của xã hội dân sự ở chỗ, hoạt động của nó vừa mang tính xã hội, vừa mang tính chính trị, đặt mục tiêu tác động lên chính sách của chính phủ theo hướng có lợi cho mình. Chẳng hạn như trong bài viết The Interest Group Society (Xã hội nhóm lợi ích), tác giả Jeffrey Berry cho rằng nhóm lợi ích là “một tập đoàn có tổ chức của những người có cùng chung một số mục đích và họ muốn gây ảnh hưởng vào chính sách công”[112]. Trong tác phẩm Interest Groups in American Politics (Các nhóm lợi
ích trong nền chính trị Mỹ), Halpin, Darren R. và Anthony J. Nownes cũng đưa ra quan niệm của mình về nhóm lợi ích, các ông cho rằng nhóm lợi ích “bao gồm bất kỳ tổ chức nào muốn gây ảnh hưởng đến các quyết định chính sách của chính phủ, đó có thể là các công ty, các tổ chức tôn giáo, các nghiệp đoàn, các tổ chức từ thiện, các Ủy ban hành động chính trị (PAC),…” [120].
- Các nhà nghiên cứu cũng khẳng định vị trí, tầm quan trọng của các nhóm lợi ích trong hệ thống chính trị. Sự hoạt động của các nhóm lợi ích góp phần vào sự thành công của việc hoạch định và thực thi các chính sách công, đảm bảo sự cân bằng xã hội và bảo vệ quyền lợi của các tầng lớp nhân dân. Robert Dahl trong các nghiên cứu của mình đã nhấn mạnh đến vai trò của các nhóm lợi ích, xem nhóm lợi ích là “yếu tố đảm bảo tính cân bằng trong cơ cấu quyền lực của xã hội”, “kết quả tốt nhất mà chính phủ dân chủ mang lại chỉ có thể đạt được thông qua sự cạnh tranh trong quá trình hoạt động của các nhóm lợi ích”, từ đó ông ủng hộ quyền tự do lập hội của công dân. Ở một công trình nghiên cứu khác, Putnam trong tác phẩm Tuning In, Tuning Out: The Strange Disappearance of Social Capital in America cũng nhấn mạnh đến vai trò của các nhóm lợi ích ở Mỹ, ông khẳng định các nhóm lợi ích là “sức mạnh của nền dân chủ, có vị trí đặc biệt trong hệ thống chính trị, có mối quan hệ chặt chẽ với các đảng phái, các chính trị gia, các công chức nhà nước, và đây là yếu tố quan trọng có thể làm “ngưng tụ” các vốn xã hội” [129].
- Các tác giả cũng đưa ra quan điểm của mình về phân loại các nhóm lợi ích, ví dụ như Jeffrey Berry (The Interest Group Society) chia các nhóm lợi ích thành: “các doanh nghiệp, các tổ chức công đoàn, các hiệp hội chuyên nghiệp, các đoàn thể liên chính quyền, các nhóm lợi ích công cộng” [112]. Halpin, Darren R. and Anthony J. Nownes (Interest Groups in American Politics, 2013) quan niệm rằng nhóm lợi ích là “bất kỳ tổ chức nào muốn gây ảnh hưởng đến chính sách của chính phủ”, chúng bao gồm: “các công ty, tổ chức từ thiện, tổ chức tôn giáo, các liên đoàn lao động, nghề nghiệp, các Ủy ban hành động chính trị”,… [120].
Ở hướng nghiên cứu thứ hai, có một số công trình tiêu biểu: Jeffrey H.Birnbaum, Những nhà vận động hành lang - những kẻ ngồi lê hoạt động như thế
nào tại Oasinhtơn (The lobbyists - How influence peddlers work their way in Washington, 1992); Jeffrey Berry, Vận động cho dân chúng: cách hoạt động chính trị của các nhóm lợi ích (Lobbying for the People: The Political Behavior of Public Interest Groups, 1977); Wright, John, Nhóm lợi ích và Quốc hội, vận động hành lang, đóng góp, và ảnh hưởng, (Interest Groups and Congress, Lobbying, Contributions, and Influence, 1996); R. Allen Hays, Ai nói lên tiếng nói của dân nghèo? Các nhóm lợi ích toàn quốc và Chính sách Xã hội (Who Speaks for the Poor? National Interest Groups and Social Policy, 2001); Grant Jordan and William
A. Maloney, Nền dân chủ và các nhóm lợi ích: Tăng cường sự tham gia? (Democracy and Interest Groups Enhancing Participation?, 2007); Suzanne Mulcahy, Vận động hành lang ở Châu Âu (Lobbying in Europe, 2015).
Các tác giả đã phân tích và chỉ ra các phương thức mà các nhóm lợi ích tổ chức quần chúng dùng để gây ảnh hưởng đến quá trình hoạch định và thực thi các quyết sách chính trị của giai cấp cầm quyền và góp phần vào việc kiểm soát quyền lực nhà nước. Những phương thức chủ yếu mà các tác giả chỉ ra: “vận động hành lang” (lobby); “nghiên cứu, phân tích chính sách”; “gây áp lực”; “thiết lập mối quan hệ với các cá nhân, tổ chức có thẩm quyền để hiện thực hóa lợi ích”; “tác động công khai qua các phương tiện truyền thông”;… Chẳng hạn như, trong tác phẩm Interest Groups and Congress, Lobbying, Contributions, and Influence (Nhóm lợi ích và Quốc hội, vận động hành lang, đóng góp, và ảnh hưởng), Wright, John R. đã chỉ ra các phương thức cơ bản mà các nhóm lợi ích tác động đến chính sách công: “tư vấn, cung cấp thông tin; đưa ra các sáng kiến chính sách; vận động hành lang; thành lập các Ủy ban hành động chính trị, gây áp lực truyền thông,…” [133].
Các nghiên cứu nêu trên cũng chỉ ra các tác động tích cực và tiêu cực trong quá trình tác động của các nhóm lợi ích đến việc hoạch định và thực thi chính sách công, đến việc kiểm soát quyền lực nhà nước. Những tác động tích cực được nêu ra là: cung cấp thông tin, sáng kiến chính sách, mở rộng dân chủ thông qua việc tăng cường sự tham gia của người dân, hạn chế sai lầm của nhà nước,… Chẳng hạn, Grant Jordan và William A. Maloney V (Democracy and Interest Groups