Các quyền của công đoàn trong Luật Công đoàn năm 1990 - Thực trạng và phương hướng hoàn thiện - 6

- Quyền tham dự hội nghị của các cơ quan nhà nước, đơn vị, tổ chức hữu quan khi bàn về những vấn đề liên quan trực tiếp đến quyền, nghĩa vụ, lợi ích của người lao động;

- Quyền kiến nghị với cơ quan nhà nước về những vấn đề phát sinh trong việc thực hiện pháp luật, chế độ, chính sách với người lao động;

- Quyền tham gia với cơ quan nhà nước giải quyết khiếu nại, tố cáo của người lao động;

- Giúp đỡ công đoàn cơ sở thực hiện việc thương lượng, ký kết và thực hiện thỏa ước lao động tập thể;

- Tham gia với các cơ quan nhà nước và đại diện người sử dụng lao động bàn bạc, giải quyết các vấn đề về quan hệ lao động.

Thứ ba, quyền tham gia của công đoàn cơ sở bao gồm những nội dung cơ bản sau:

Chủ tịch công đoàn cơ sở được mời dự các cuộc họp của doanh nghiệp, cơ quan bàn những vấn đề có liên quan đến nghĩa vụ, quyền và lợi ích của người lao động. Được doanh nghiệp, cơ quan cung cấp các tài liệu, thông tin cần thiết về những vấn đề nói trên;

Tham gia ý kiến với người đứng đầu doanh nghiệp, cơ quan trong việc thực hiện pháp luật, chính sách, chế độ liên quan đến quyền, nghĩa vụ và lợi ích của người lao động như chế độ về an toàn lao động, vệ sinh lao động; tham gia giải quyết tranh chấp lao động tại doanh nghiệp cũng như tại tòa án; tham gia giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản trong các doanh nghiệp…

Căn cứ vào tiêu chuẩn của Nhà nước về an toàn lao động, vệ sinh lao động, công đoàn cơ sở thỏa thuận với người sử dụng lao động các biện pháp bảo đảm an toàn lao động, vệ sinh lao động, cải thiện điều kiện làm việc, bảo vệ môi trường ghi vào thỏa ước lao động tập thể. Công đoàn cơ sở kiểm tra, giám sát việc thực hiện kế hoạch bảo hộ lao động và biện pháp an toàn vệ

sinh lao động, phòng chống cháy nổ; giám sát việc thực hiện chế độ chính sách và quy định của pháp luật về an toàn lao động, vệ sinh lao động. Khi phát hiện nơi làm việc có dấu hiệu nguy hiểm, có nguy cơ đe dọa tính mạng, sức khỏe người lao động, công đoàn cơ sở có quyền yêu cầu người có trách nhiệm thực hiện ngay các biện pháp bảo đảm an toàn lao động, kể cả trường hợp phải tạm ngừng hoạt động nếu thấy cần thiết và yêu cầu người sử dụng lao động có ngay biện pháp để khắc phục. Ngoài ra, công đoàn cơ sở có quyền tham gia điều tra xử lý các vụ tai nạn lao động. Trong bảng kết luận tai nạn lao động, công đoàn cơ sở có quyền giữ ý kiến của mình về nguyên nhân, trách nhiệm gây ra tai nạn và có quyền kiến nghị với cơ quan có trách nhiệm xử lý theo đúng pháp luật.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 117 trang tài liệu này.

Khi tham gia quan hệ lao động các bên đều nhằm mưu cầu tìm kiếm lợi ích. Tuy nhiên quan hệ ở đây là quan hệ có tính chất đối trọng về lợi ích nên nếu quyền và lợi ích của bên này đạt được nhiều hơn thì bên kia sẽ ít đi. Chính vì thế, mâu thuẫn, căng thẳng giữa các bên là điều khó tránh khỏi và trong nhiều trường hợp họ đặt nhau trước sự lựa chọn và đối trọng quyết liệt, gay gắt, khó điều hòa. Mặc dù vậy, các bên chỉ có thể đạt được lợi ích của mình khi thiết lập và duy trì quan hệ lao động ổn định, hài hòa tạo điều kiện để sản xuất phát triển, nâng cao hiệu quả công việc. Chính vì vậy, cần thiết phải có sự dung hòa các mặt đối lập nói trên trong một chỉnh thể thống nhất, để những mâu thuẫn, đối lập giữa các bên không đi đến phá vỡ quan hệ lao động mà trở thành động lực tạo đà cho sự phát triển sản xuất. Do đó, sự hợp tác giữa Nhà nước, người sử dụng lao động, người lao động trong bối cảnh nền kinh tế thị trường dường như là một sự tất yếu khách quan. Sự hợp tác này một cơ chế hoạt động trong quan hệ giữa Nhà nước, người sử dụng lao động và người lao động. Cái đó được gọi là Cơ chế ba bên.

Theo quan điểm của Tổ chức lao động quốc tế (ILO):

Các quyền của công đoàn trong Luật Công đoàn năm 1990 - Thực trạng và phương hướng hoàn thiện - 6

Cơ chế ba bên có nghĩa là bất cứ các mối quan hệ lao động nào trong đó Nhà nước, người lao động và người sử dụng lao động

là các nhóm độc lập, mỗi nhóm thực hiện các chức năng riêng. Điều đó chỉ đơn thuần là sự chuyển đổi thành các mối quan hệ xã hội của các nguyên tắc dân chủ, chính trị tự do, đa số sự tham gia của mỗi cá nhân vào những quyết định có liên quan đến họ…Nguyên tắc là những vấn đề chung không có một đối tác đơn lẻ, một hệ thống quan hệ lao động dựa trên sự kết hợp điều kiện lịch sử, chính trị, xã hội, văn hóa và mỗi hệ thống phát triển theo nguyên tắc của cuộc chơi dưới ánh sáng của nhiều thông số đó [41].

Nhằm làm rõ quan điểm cơ chế ba bên của ILO, cuốn "Thuật ngữ quan hệ công nghiệp và các khái niệm liên quan" đã đưa ra định nghĩa: Cơ chế ba bên là sự tương tác tích cực của chính phủ, người sử dụng lao động và người lao động (qua các đại diện của họ) như là các bên bình đẳng và độc lập trong các cố gắng tìm kiếm giải pháp cho các vấn đề cùng quan tâm. Một quá trình ba bên có thể bao gồm việc tham khảo ý kiến, thương thuyết hoặc cùng ra quyết định, phụ thuộc vào cách thức đã được nhất trí giữa các bên liên quan. Những cách thức này có thể là đặc biệt theo từng vụ việc hoặc được thể chế hóa.

Trong các qui định của pháp luật lao động Việt Nam mặc dù chưa có điều luật nào đưa ra khái niệm về cơ chế ba bên. Song, trong vài năm gần đây cũng đã có nhiều bài viết bàn về vấn đề này. Theo TS Phạm Công Trứ:

Bằng việc ký kết các hợp đồng lao động cá nhân giữa người lao động và người sử dụng lao động, hình thành nên quan hệ lao động cá nhân - hạt nhân của cơ chế hai bên truyền thống. Sau đó, bằng việc thực hiện quyền tự do liên kết các tổ chức của cả phía người lao động và người sử dụng lao động được hình thành. Ở tầm quốc gia, đại diện của các tổ chức này cùng bàn bạc và giải quyết những vấn đề có liên quan trong lĩnh vực lao động và xã hội. Trên cơ sở và trong khuôn khổ của mối quan hệ này hình thành một cơ chế mang tính pháp lý quốc tế, đó là cơ chế ba bên [Dẫn theo: 40].

Còn TS. Đào Thị Hằng cho rằng:

Cơ chế ba bên được hiểu là cơ chế phối hợp hoạt động giữa chính phủ, đại diện người lao động, đại diện người sử dụng lao động với tư cách là các bên độc lập và bình đẳng khi họ cùng tìm kiếm những giải pháp chung trong các vấn đề lao động, xã hội mà cả ba bên cùng quan tâm và nỗ lực giải quyết [Dẫn theo: 40].

Theo TS. Lê Thị Hoài Thu:

Cơ chế ba bên suy cho cùng là sự thúc đẩy việc tìm kiếm những giải pháp mà các bên cùng nhất trí đối với những vấn đề nảy sinh do các lợi ích xã hội khác nhau. Đó là một quá trình đảm bảo cho các đối tác xã hội đều tham gia vào việc quyết định những vấn đề liên quan đến lợi ích của họ và họ có khả năng thực hiện các chính sách đó. Ngoài ra, cơ chế ba bên còn là phương tiện nhằm đảm bảo cho các chính sách của Chính phủ phù hợp với nguyện vọng và lợi ích chung của xã hội, lợi ích chính đáng của các bên. Hơn nữa, nó còn được coi là một nguyên tắc chủ đạo trong quá trình thiết lập mối quan hệ lao động [40].

Có thể nhận thấy rằng, quan điểm của các nhà khoa học nước ta thống nhất với cách hiểu của Tổ chức lao động quốc tế về vấn đề này.

Như vậy, cơ chế ba bên là sự phối hợp hoạt động giữa Nhà nước, người lao động, người sử dụng lao động với tư cách là những bên độc lập, bình đẳng khi cùng tìm kiếm kết quả ở những vấn đề các bên cùng quan tâm trên cơ sở tôn trọng, bảo đảm lợi ích của các bên trong quan hệ và cùng chia sẻ rủi ro.

Cơ chế ba bên ở Việt Nam hiện nay có sự tham gia của ba đối tác là: cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước, tổ chức đại diện giới sử dụng lao động, tổ chức đại diện cho người lao động. Hiện nay chưa có một văn bản độc lập quy định cụ thể về cách thức hoạt động của cơ chế ba bên mà nó chỉ được quy

định rải rác ở một số văn bản, chủ yếu tập trung ở Bộ Luật lao động, Luật Công đoàn. Theo đó, hoạt động của cơ chế ba bên được quy định: "Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, công đoàn các cấp tham gia với các cơ quan nhà nước và đại diện của người sử dụng lao động bàn bạc giải quyết các vấn đề về lao động" [29, Điều 156]; Cơ quan nhà nước, thủ trưởng đơn vị, tổ chức và công đoàn phải tăng cường mối quan hệ hợp tác trong mọi hoạt động nhằm mục đích xây dựng cơ quan, đơn vị, tổ chức, xây dựng đất nước và chăm lo lợi ích của người lao động, khi có những vấn đề còn có ý kiến khác nhau thì phải tiến hành đối thoại, hiệp thương, tìm cách giải quyết theo đúng pháp luật. Cơ quan nhà nước, thủ trưởng đơn vị, tổ chức có trách nhiệm tạo điều kiện cần thiết để công đoàn hoạt động (Điều 3 Luật Công đoàn).

Về thực chất thì Nhà nước, Công đoàn, người sử dụng lao động cùng tham gia bàn bạc thống nhất quan điểm để giải quyết các vấn đề trong quan hệ lao động. Theo quy định trong Bộ Luật lao động thì những vấn đề cơ bản nhất có liên quan đến quyền lợi thiết thân của các bên trong quan hệ đều được quyết định trên cơ sở sự hợp tác ba bên, trong đó Nhà nước nắm quyền quyết định trong việc ban hành pháp luật, hoạch định chính sách. Đây là sự hợp tác ở cấp trung ương và thực tế ở nước ta cơ chế ba bên được thể hiện một cách rõ ràng nhất, hoạt động có hiệu quả nhất là ở tầm vĩ mô. Có thể nói, ở các mức độ khác nhau cơ chế ba bên được áp dụng trong hầu hết các vấn đề liên quan đến quan hệ lao động, từ việc quy định điêu kiện lao động, định mức lao động đến việc quy định tiền lương, quản lý lao động, giải quyết tranh chấp… Tuy nhiên, cơ chế ba bên cũng bao hàm sự đan xen của các quan hệ giữa hai bên đối tác và thực ra cơ chế ba bên chỉ thực sự phát huy hiệu quả khi mối quan hệ của hai đối tác, đặc biệt là giữa đại diện người lao động và người sử dụng lao động tại đơn vị cơ sở được các bên tôn trọng và quan tâm một cách thỏa đáng.

Trong cơ chế ba bên, Nghị định số 145/2004/NĐ-CP quy định: Đại diện người lao động (Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam) và đại diện của

người sử dụng lao động (Phòng Thương mại và công nghiệp Việt Nam, Liên minh Hợp tác xã Việt Nam) tham gia với cơ quan nhà nước (Bộ lao động Thương binh và xã hội) về chính sách, pháp luật và những vấn đề có liên quan đến quan hệ lao động (Điều 1). Đây là cơ sở pháp lý nhằm tạo điều kiện cho việc tổ chức thực hiện được thuận lợi. Với vai trò là người đại diện và bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động, có trách nhiệm tham gia với nhà nước phát triển sản xuất, giải quyết việc làm, cải thiện đời sống vật chất, tinh thần cho người lao động, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam có trách nhiệm:

Một là, phối hợp với các bên liên quan (Bộ Lao động Thương binh và xã hội, Phòng Thương mại và công nghiệp Việt Nam, Liên minh Hợp tác xã Việt Nam), trong việc tổ chức tổng hợp ý kiến tham gia về chính sách, pháp luật và các vấn đề liên quan đến lao động, cũng như những nội dung phát sinh trong quá trình thực hiện chính sách pháp luật lao động và giải quyết các vấn đề liên quan đến quan hệ lao động.

Hai là, chỉ đạo công đoàn các cấp giám sát việc tổ chức thực hiện pháp luật lao động và phối hợp với các bên liên quan giải quyết các vấn đề phát sinh trong quan hệ lao động ở các doanh nghiệp tại địa phương và tổng hợp báo cáo tình hình về quan hệ lao động lên cấp trên.

Ba là, chuẩn bị chương trình kế hoạch hành động của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam trong việc phối hợp với các bên liên quan để thảo luận tại hội nghị các bên.

Bốn là, bảo lưu ý kiến và báo cáo Thủ tướng Chính phủ

Trong cơ chế ba bên, tổ chức đại diện của người lao động đóng vai trò là cầu nối người lao động với người sử dụng lao động và Nhà nước; cùng với đại diện của Nhà nước và người sử dụng lao động quyết định hoặc tư vấn cho Nhà nước xây dựng chính sách, pháp luật lao động, xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia, vùng, ngành…; Phối hợp với đại diện của

Nhà nước, của người sử dụng lao động tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và giải quyết các vấn đề phát sinh; cùng đại diện của người sử dụng lao động xây dựng quan hệ lao động lành mạnh, môi trường lao động hài hòa, ổn định.

Quyền tham gia của công đoàn với cơ quan nhà nước và đại diện người sử dụng lao động về các vấn đề quan hệ lao động là một phương pháp đặc thù của luật lao động. Có thể thấy rằng, trong các cơ quan nhà nước vai trò của tổ chức công đoàn vẫn được đề cao. Bởi lẽ, trong các cơ quan nhà nước, quan hệ lao động là quan hệ mang tính chất công quyền, là đối tượng của ngành luật hành chính. Công đoàn với tư cách là người đại diện của tập thể công chức được tham gia vào một số quan hệ, tuy nhiên sự tham gia đó là hạn chế và có mức độ, chủ yếu trên tinh thần của "quyền làm chủ tập thể". Với kiểu tổ chức hành chính của cơ quan nhà nước, cấp dưới phục tùng cấp trên rất khó có đất cho sự thỏa thuận, và như vậy cũng khó có cơ hội cho sự tham gia của tổ chức công đoàn như là người điều chỉnh các quan hệ lao động.

Có thể nói rằng, với chức năng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động trong cơ chế thị trường, công đoàn được tham gia vào hầu hết mọi vấn đề trong quan hệ lao động: từ việc tham gia xây dựng, soạn thảo chế độ, chính sách, pháp luật về lao động đến việc đảm bảo điều kiện lao động, điều kiện sử dụng lao động, tham gia giải quyết tranh chấp lao động, tổ chức lãnh đạo đình công, tham gia xử lý kỷ luật người lao động…Tuy nhiên, ở mỗi cấp công đoàn khác nhau lại có những cách thức, phương pháp khác nhau tùy theo đó là mối quan hệ của cơ chế ba bên hay là đối tác hai bên và tùy thuộc vào cấp độ của từng mối quan hệ này.

Như vậy, bằng một số lượng khá lớn các quyền mà pháp luật trao cho, từ khâu xây dựng các quy phạm, áp dụng các quy phạm đến giải quyết các tranh chấp, công đoàn - một bên chủ thể của quan hệ lao động tập thể đã trực tiếp tham gia cùng Nhà nước vào việc điều chỉnh các quan hệ lao động. Tuy

nhiên cũng phải nói thêm rằng, những quyền đó phần nhiều mới chỉ ở dưới dạng văn bản, còn sự tham gia điều chỉnh, tham gia tác động cụ thể đến đâu còn phụ thuộc vào nhiều điều kiện khác, trong đó có phần thuộc về sức mạnh nội lực của chính bản thân "tổ chức rộng rãi nhất của giai cấp công nhân và của những người lao động" này.

2.3. Quyền đại diện của công đoàn

Về mặt pháp lý, quyền đại diện của công đoàn được xác lập trong Hiến pháp và pháp luật về Công đoàn. Đồng thời, nó cũng được xác định trong cơ cấu của tổ chức công đoàn. Theo đó, tổ chức công đoàn thành lập theo Điều lệ Công đoàn Việt Nam là người đại diện của công nhân lao động.

Trong các chủ thể tham gia quan hệ lao động, tổ chức công đoàn đại diện tập thể lao động có vai trò quan trọng. Vai trò đại diện của tổ chức công đoàn ra đời gắn với lịch sử ra đời, tồn tại và phát triển của tổ chức công đoàn. Đại diện tập thể lao động của tổ chức công đoàn không chỉ được thể chế trong luật pháp quốc tế mà còn được cụ thể hóa trong luật quốc gia. Ở Việt Nam, địa vị pháp lý của tổ chức công đoàn đã được ghi nhận trong Hiến pháp, Luật Công đoàn, Bộ luật Lao động…Trên thực tế, tổ chức công đoàn ngày càng khẳng định vai trò đại diện liên kết và hài hòa lợi ích của các bên trong quan hệ lao động. Vì vậy, nâng cao nhận thức cho người lao động về chức năng, vai trò, vị trí của tổ chức công đoàn sẽ góp phần nâng cao hiệu quả đại diện tập thể lao động của tổ chức công đoàn, cũng chính là nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đoàn viên, công nhân, viên chức lao động.

Có thể nói, vai trò đại diện tập thể lao động của tổ chức công đoàn xuất phát từ đòi hỏi của thực tiễn. Bởi lẽ, cùng với sự ra đời và phát triển của kinh tế tư bản chủ nghĩa, giai cấp công nhân hình thành, lớn mạnh về số lượng và chất lượng. Các trung tâm công nghiệp hình thành ở các nước Châu Âu đã làm bùng nổ sự phát triển của lực lượng sản xuất. Một số lớn thợ thủ công, nông dân đã trở thành công nhân. Họ làm việc tại các trung tâm công

Xem tất cả 117 trang.

Ngày đăng: 03/11/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí