nghiệp, các khu đô thị, họ bán sức lao động cho các ông chủ tư bản. Điều kiện làm việc của người công nhân rất nặng nhọc cả về cường độ và thời gian. Họ chỉ nhận được đồng lương ít ỏi so với sức lao động bỏ ra và luôn luôn sống trong cảnh yếu thế, chịu sự bóc lột của chủ tư bản. Tình cảnh đó đã thôi thúc tập thể lao động đấu tranh với giới chủ, đòi quyền lợi và ổn định việc làm. Người lao động nhận thức được rằng nếu từng người đấu tranh riêng lẻ thì bao giờ cũng yếu thế hơn so với cả tập thể lao động liên kết thành một khối thống nhất.
Công đoàn với tư cách là tổ chức xã hội tự nguyện của những người lao động, trong quá trình vận động, tồn tại và phát triển của mình tham gia vào nhiều mối quan hệ với những vai trò và vị trí khác nhau. Song qua đó, quyền đại diện của tổ chức công đoàn với mục tiêu bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người lao động cũng được thể hiện rõ qua hoạt động công đoàn đại diện cho tập thể lao động ký kết thỏa ước lao động tập thể.
Theo quy định của pháp luật lao động, thỏa ước lao động tập thể là văn bản thỏa thuận giữa tập thể lao động và người sử dụng lao động, quyền lợi và nghĩa vụ của hai bên trong quan hệ lao động. Trong quan hệ lao động, người sử dụng lao động và người lao động có hai quá trình tương tác rất quan trọng là quá trình đối thoại, thương lượng, ký kết thỏa ước lao động tập thể và quá trình tranh chấp lao động, đình công.
Các quá trình này có mục đích chung là xác định quyền, lợi ích mà người sử dụng lao động dành cho tập thể người lao động để hai bên bắt đầu, tiếp tục hay chấm dứt quan hệ lao động. Trong hai quá trình trên, quá trình đối thoại, thương lượng và ký kết thỏa ước lao động tập thể luôn được coi là quá trình quan trọng, là kênh tương tác chính để tạo dựng và duy trì quan hệ lao động lành mạnh. Nếu quá trình thứ nhất có vấn đề thì có nguy cơ xảy ra quá trình thứ hai.
Trên thực tế mối quan hệ lao động đã và đang nảy sinh nhiều vấn đề mới mẻ, bức xúc, phức tạp, khó dự liệu, đòi hỏi cần có sự hài hòa về lợi ích,
quy định có lợi hơn cho người lao động so với quy định của pháp luật. Vì vậy, việc thương lượng, ký kết và thực hiện thỏa ước lao động tập thể trong các loại hình doanh nghiệp có ý nghĩa quan trọng giải quyết hài hòa quan hệ lao động và hoạt động của tổ chức công đoàn, đặc biệt là công đoàn cơ sở doanh nghiệp. Và để nâng cao hiệu quả quyền đại diện của tổ chức công đoàn trong việc tham gia xây dựng, giám sát thực hiện thỏa ước lao động tập thể trong doanh nghiệp hiện nay là nhiệm vụ quan trọng của tổ chức công đoàn, tiến tới không chỉ trong phạm vi một doanh nghiệp mà cả thỏa ước phạm vi ngành. Theo quy định của pháp luật lao động "mọi vi phạm đã có pháp luật xử lý" nhưng thực tế việc xử lý chưa hữu hiệu, đó là hạn chế lớn nhất trong công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý của cơ quan quản lý lao động. Nên công đoàn cơ sở phải xây dựng thỏa ước lao động tập thể có chất lượng tốt, coi đó là "Luật của doanh nghiệp", nó tác động và điều chỉnh trực tiếp đến quan hệ lao động trong doanh nghiệp mà công đoàn cơ sở có quyền tham gia, giám sát, đề xuất, điều chỉnh trực tiếp và thường xuyên. Vì vậy, để thực hiện có hiệu quả quyền đại diện cho tập thể lao động ký kết thỏa ước lao động tập thể, các cấp công đoàn cần phải quan tâm đến việc đề xuất với người sử dụng lao động xây dựng và ký kết thỏa ước lao động tập thể. Sự thương lượng này mang tính chất tập thể thông qua đại diện của các bên quan hệ lao động, do vậy công đoàn cơ sở cần nắm vững tình hình hoạt động doanh nghiệp, thăm dò thái độ người sử dụng lao động và thực hiện các "vận động hành lang", có thể tranh thủ sự ủng hộ của công đoàn cấp trên, công đoàn các khu công nghiệp. Chủ tịch công đoàn cơ sở phải danh thời gian tìm hiểu kỹ về pháp luật lao động, quy định về xây dựng và ký kết thỏa ước lao động tập thể, quan tâm đến vai trò nhiệm vụ của mình trong nội dung này. Đồng thời tích cực tìm hiểu, học hỏi kinh nghiệm của các đơn vị bạn hoặc cán bộ chuyên môn công đoàn cấp trên để xây dựng kỹ năng và phương pháp thương lượng đúng đắn. Tiếp tục dự kiến nhân sự cho quá trình soạn thảo, thương lượng và ký kết, cung cấp thông tin cho doanh nghiệp về những quy định bắt buộc của pháp luật về thỏa
ước lao động tập thể, giúp người sử dụng lao động tham khảo thỏa ước lao động tập thể tiến bộ của các doanh nghiệp trong vùng. Nắm và tìm hiểu những vướng mắc và hạn chế của các hợp đồng lao động mà người lao động đã ký với doanh nghiệp trước đó để khắc phục thiếu sót, vì thỏa ước lao động tập thể mang tính đại diện cao hơn…
Tuy nhiên, hiện nay phần lớn các bản thỏa ước lao động tập thể còn mang tính hình thức, đối phó chủ yếu sao chép lại nội dung của Bộ luật lao động. Không ít doanh nghiệp chưa thật sự tôn trọng sự hợp tác với Ban chấp hành công đoàn cơ sở trong quá trình thương lượng, ký kết thỏa ước lao động tập thể, xem nhẹ quyền lợi của người lao động. Một số cán bộ công đoàn chưa tích cực, chưa chủ động trong việc đưa ra yêu cầu thương lượng để ký kết thỏa ước lao động tập thể, kỹ năng thương lượng đàm phán còn yếu, chưa thực sự là người đại diện, bảo vệ quyền lợi cho người lao động.
Công đoàn Việt Nam là tổ chức công đoàn thống nhất và duy nhất ở Việt Nam được ghi nhận tại Điều 10, Hiến pháp 1992 (đã được sửa đổi bổ sung năm 2001):
Công đoàn là một tổ chức chính trị- xã hội của giai cấp công nhân và của người lao động cùng với cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội chăm lo và bảo vệ quyền lợi của cán bộ, công nhân, viên chức và những người lao động khác; tham gia quản lý nhà nước và xã hội; tham gia kiểm tra, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế; giáo dục cán bộ, công nhân, viên chức và những người lao động khác xây dựng và bảo vệ Tổ quốc [30].
Có thể bạn quan tâm!
- Qúa Trình Hình Thành Và Phát Triển Pháp Luật Công Đoàn Ở Việt Nam
- Quyền Thành Lập, Gia Nhập Và Hoạt Động Công Đoàn
- Các quyền của công đoàn trong Luật Công đoàn năm 1990 - Thực trạng và phương hướng hoàn thiện - 6
- Quyền Tham Gia Vào Hoạt Động Quản Lý, Sử Dụng Lao Động
- Một Số Nhận Xét Về Các Quyền Của Công Đoàn Và Thực Tiễn Thực Hiện
- Một Số Yêu Cầu Cơ Bản Nhằm Thực Hiện Có Hiệu Quả Các Quyền Của Tổ Chức Công Đoàn
Xem toàn bộ 117 trang tài liệu này.
Hơn nữa, thể chế hóa vai trò đại diện tập thể lao động của tổ chức công đoàn là một việc làm cần thiết. Do vậy, Điều 1 Luật Công đoàn đã khẳng định:
Công đoàn là tổ chức chính trị - xã hội rộng lớn nhất của giai cấp công nhân và của người lao động Việt Nam (gọi chung là
người lao động) tự nguyện lập ra dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, là thành viên trong hệ thống chính trị xã hội Việt Nam, là trường học chủ nghĩa xã hội của người lao động [28].
Công đoàn đại diện và bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động; có trách nhiệm tham gia với Nhà nước phát triển sản xuất, giải quyết việc làm, cải thiện đời sống vật chất, tinh thần cho người lao động. Công đoàn đại diện và tổ chức người lao động tham gia quản lý cơ quan, đơn vị, tổ chức; quản lý kinh tế - xã hội, quản lý nhà nước; trong phạm vi chức năng của mình, thực hiện quyền kiểm tra, giám sát hoạt động của cơ quan, đơn vị, tổ chức theo quy định của pháp luật [28, Điều 2].
Bộ luật lao động năm 1994 (được sửa đổi bổ sung vào các năm 2002, 2006, 2007) đã có một chương riêng quy định vai trò của tổ chức công đoàn, đại diện người lao động tham gia ký kết thỏa ước lao động tập thể, tham gia vào hội đồng lương, hội đồng xét kỷ luật khi người lao động vi phạm kỷ luật lao động, Công đoàn cũng đại diện và bảo vệ người lao động trước cơ quan tố tụng...
Chức năng cơ bản của Công đoàn là "bảo vệ lợi ích", "tham gia quản lý" và "giáo dục". Trong đó, bảo vệ lợi ích là mục đích của công đoàn, tham gia quản lý là phương tiện để đạt được mục đích, giáo dục là động lực tinh thần để đạt được mục đích. Vì vậy, Công đoàn có vị trí rất quan trọng trong xã hội. Không chỉ đại diện cho lực lượng của mình, Công đoàn còn đại diện cho mọi người lao động trong xã hội; không chỉ bảo vệ lợi ích cho người lao động, Công đoàn còn đại diện cho họ tham gia quản lý kinh tế - xã hội. Cũng chính vì thế, Điều 12 Bộ luật Lao động đã ghi nhận: "Công đoàn tham gia cùng với cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội chăm lo và bảo vệ quyền lợi của người lao động; tham gia kiểm tra, giám sát việc thi hành các quy định của pháp luật lao động" [29]. Như vậy, Công đoàn Việt Nam không phải cạnh tranh với bất kỳ tổ chức nào khác để có cơ hội thể hiện vai trò của
mình đối với người lao động và đối với tiến trình phát triển kinh tế, ổn định chính trị và tiến bộ xã hội ở Việt Nam. Đây có thể được coi là một lợi thế của tổ chức công đoàn. Tuy nhiên, đây cũng là một thách thức lớn đối với tổ chức này trong bối cảnh hiện nay và trong những năm tới.
Công đoàn Việt Nam là một tổ chức chính trị - xã hội trong hệ thống chính trị - một chủ thể hợp pháp, được thành lập trên cơ sở Hiến pháp, Luật Công đoàn, Bộ luật Lao động và các văn bản pháp luật. Trên cơ sở pháp lý đó, Điều lệ Công đoàn Việt Nam đã xác định công đoàn đại diện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động là chức năng trung tâm, thể hiện vai trò của công đoàn một cách tập trung nhất, rõ ràng nhất và hội tụ các yếu tố thể hiện tính hiệu quả hoạt động của tổ chức công đoàn trong hệ thống chính trị. Tổ chức công đoàn có cơ cấu tổ chức chặt chẽ hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ, thống nhất về tư tưởng và hành động vì mục tiêu chung của đất nước. Trong lĩnh vực lao động, Công đoàn thực hiện vai trò đại diện, bảo vệ người lao động, liên kết họ vào tổ chức để thúc đẩy và hài hòa quan hệ lao động.
Vai trò đại diện tập thể lao động thực hiện thông qua những chức năng chung, cũng như qua các hoạt động ở từng cấp trong hệ thống tổ chức công đoàn. Tại đơn vị cơ sở, công đoàn thay mặt đại diện và bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của người lao động thông qua việc thương lượng và ký thỏa ước lao động tập thể, tích cực giải quyết mâu thuẫn bất đồng giữa các bên để phòng ngừa, giảm thiểu các tranh chấp lao động, hoặc đại diện người lao động tham gia giải quyết các tranh chấp lao động, lãnh đạo đình công. Ở cấp trung ương (Tổng liên đoàn lao động), công đoàn có quyền đưa ra sáng kiến pháp luật, tham gia kiến nghị, đề xuất với Nhà nước trong việc ban hành pháp luật có liên quan đến người lao động.
Thực hiện tốt các quy định pháp luật; kiểm tra, giám sát; tham gia xây dựng chính sách, pháp luật chính là làm tốt vai trò đại diện của tổ chức công đoàn.
Công đoàn thực sự là người đại diện của công nhân, viên chức, lao động, điều hòa quan hệ lao động, thúc đẩy sự phát triển và ổn định xã hội. Công đoàn chủ động phối hợp với người sử dụng lao động thương lượng, ký kết thỏa ước lao động tập thể; tích cực giải quyết mâu thuẫn, bất đồng giữa các bên để phòng ngừa, giảm thiểu các tranh chấp lao động; xây dựng mối quan hệ phối hợp với các cơ quan nhà nước, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, Liên minh các hợp tác xã Việt Nam…nhằm thúc đẩy việc hoàn thành nhiệm vụ của mỗi bên, chăm lo quyền, lợi ích hợp pháp của người lao động.
Như vậy, với tư cách là đại diện cho người lao động, tổ chức công đoàn cần phải thể hiện và khẳng định vị trí, vai trò của mình một cách thỏa đáng trong việc thương lượng và ký kết thỏa ước lao động tập thể nhằm thực hiện được chức năng cao cả của mình là bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng cho người lao động. Đây cũng là cách để khẳng định quyền đại diện của tổ chức công đoàn. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, việc thực hiện quyền này ở nước ta còn tồn tại nhiều bất cập trong đó phải kể đến môi trường pháp lý và các nhân tố khách quan tác động vào quan hệ làm cho việc thương lượng, ký kết thỏa ước lao động tập thể của tổ chức công đoàn ở nước ta chưa đạt được hiệu quả như mong muốn.
2.4. Quyền tham gia kiểm tra, giám sát việc thi hành các quy định của pháp luật lao động
Đây là một trong những nhóm quyền thể hiện chức năng tham gia vào hoạt động quản lý của tổ chức công đoàn. Theo quy định của Luật Công đoàn, công đoàn có quyền tổ chức, kiểm tra hoặc phối hợp với cơ quan nhà nước, kiểm tra, giám sát việc thi hành pháp luật lao động, công đoàn và chính sách pháp luật khác có liên quan đến quyền và nghĩa vụ của người lao động.
Công đoàn Việt Nam luôn coi trọng việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động. Các cấp công đoàn, nhất là công đoàn cơ sở, đi sâu vào đời sống công nhân, người lao động, nắm vững tâm tư,
nguyện vọng của họ; kịp thời phát hiện những mâu thuẫn nảy sinh trong quan hệ giữa người sử dụng lao động và người lao động; kịp thời tham gia với giới chủ, người sử dụng lao động đưa ra những giải pháp tích cực giải quyết những mâu thuẫn này; quan tâm đến vấn đề tiền lương, tiền thưởng, bảo hiểm xã hội, an toàn, vệ sinh lao động, bảo vệ môi trường sinh thái. Trong điều kiện hiện nay, bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng, hợp pháp của công nhân, lao động là nhiệm vụ trọng tâm của Công đoàn trong quá trình hội nhập và phát triển kinh tế. Kiểm tra, giám sát là một trong những quyền quan trọng của tổ chức công đoàn nhằm thực hiện chức năng bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp chính đáng cho người lao động. Hơn nữa, công đoàn cũng tăng cường kiểm tra, giám sát việc thi hành chính sách, pháp luật, nhất là các chính sách, pháp luật có liên quan đến quyền, nghĩa vụ của công nhân, viên chức, lao động. Thực hiện tốt cơ chế đối thoại giữa người lao động với người sử dụng lao động, chủ động tham gia giải quyết có hiệu quả các tranh chấp lao động để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của công nhân, viên chức, lao động.
Điều 2 Luật Công đoàn năm 1990 đã ghi nhận quyền tham gia kiểm tra, giám sát việc thi hành các quy định của pháp luật lao động:
1.Công đoàn đại diện và bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động; có trách nhiệm tham gia với Nhà nước phát triển sản xuất, giải quyết việc làm, cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của người lao động. 2. Công đoàn đại diện và tổ chức người lao động tham gia quản lý cơ quan, đơn vị, tổ chức, quản lý kinh tế - xã hội, quản lý Nhà nước; trong phạm vi chức năng của mình, thực hiện quền kiểm tra, giám sát hoạt động của cơ quan, đơn vị, tổ chức theo quy định của pháp luật [28].
Không những vậy:
1. Trong phạm vi chức năng của mình, công đoàn kiểm tra việc chấp hành pháp luật về hợp đồng lao động, tuyển dụng, cho
thôi việc, tiền lương, tiền thưởng, bảo hộ lao động, bảo hiểm xã hội và các chính sách liên quan đến quyền, nghĩa vụ và lợi ích của người lao động. 2. Khi kiểm tra, công đoàn yêu cầu thủ trưởng cơ quan, đơn vị, tổ chức trả lời những vấn đề đặt ra, kiến nghị biện pháp sửa chữa những thiếu sót, ngăn ngừa vi phạm pháp luật và xử lý người vi phạm pháp luật [28, Điều 9].
Kiểm tra, bảo vệ vừa là quyền vừa là chức năng của công đoàn. Hai quyền đó cùng song song tồn tại và hỗ trợ cho nhau. Bởi lẽ, khi công đoàn thực hiện quyền kiểm tra trong phạm vi chức năng của mình tùy thuộc vào mỗi cấp công đoàn khác nhau phát hiện những thiếu sót, sai phạm để từ đó đưa ra những kiến nghị, đề xuất góp phần bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động - những người yếu thế trong quan hệ lao động.
Công đoàn, một mặt, có nhiệm vụ tham gia với Chính phủ xây dựng kể hoạch, xác định nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội; mặt khác giám sát hoạt động của Chính phủ. Việc kiểm tra, giám sát phải dựa trên cơ sở khoa học, điều tra, phân tích tình hình việc làm và đời sống của công nhân, viên chức, lao động và tình hình kinh tế - xã hội nói chung. Công đoàn tận dụng ưu thế của tổ chức mình quan hệ chặt chẽ với người lao động, phản ánh với Nhà nước, đưa ra kiến nghị hợp lý thúc đẩy việc soạn thảo pháp luật, hoàn thiện chính sách lao động.
Trong các doanh nghiệp, việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động được thực hiện thông qua việc xây dựng chế độ bình đẳng thương lượng. Đây là nội dung quan trọng trong ký kết thỏa ước lao động tập thể. Các vấn đề xúc tiến việc làm, bồi dưỡng nghề nghiệp cần trở thành điều khoản quan trọng để tạo điều kiện cho người lao động nâng cao trình độ học vấn, tay nghề của mình, đồng thời nâng cao nguồn lực của doanh nghiệp.
Trên thực tế, các cấp công đoàn cũng đã có nhiều cố gắng, nỗ lực trong việc kiểm tra, giám sát hoặc phối kết hợp để thực hiện quyền kiểm tra,