Quy Trình Áp Dụng Pháp Luật Trong Thực Hành Quyền Công Tố Ở Giai Đoạn Điều Tra Của Viện Kiểm Sát Nhân Dân

(2003), khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra, VKS có quyền quyết định việc khởi tố vụ án, khởi tố bị can; đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu CQĐT tiến hành điều tra, khi xét thấy cần thiết, VKS trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra. VKS quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam và các biện pháp ngăn chặn khác; quyết định phê chuẩn, quyết định không phê chuẩn các quyết định của CQĐT; hủy bỏ các quyết định không có căn cứ và trái pháp luật của CQĐT; quyết định đình chỉ điều tra; quyết định đình chỉ và tạm đình chỉ vụ án; quyết định việc truy tố bị can. Như vậy chỉ qua Điều 112 BLTTHS (2003) đã cho thấy, trong hoạt động điều tra VAHS, VKS giữ vai trò chính, chủ đạo. Mặc dù CQĐT trực tiếp tiến hành các hoạt động điều tra là chủ yếu (trừ một số trường cần thiết thì VKS trực tiếp tiến hành), nhưng nhìn một cách toàn diện và xét đến cùng, VKS là cơ quan có vai trò chủ đạo, quyết định và chịu trách nhiệm đến cùng về toàn bộ quá trình thực hiện quyền công tố.

Vai trò của VKS trong hoạt động thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra còn được thể hiện một cách cụ thể hơn qua các quy định của pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện trưởng, Phó Viện trưởng và Kiểm sát viên, với tư cách là những người đại diện cho cơ quan công tố trực tiếp tiến hành tố tụng. Trong giai đoạn điều tra, với tư cách là người đứng đầu, thực hiện chức năng quản lý, điều hành hoạt động tố tụng của VKS, Viện trưởng có vai trò rất quan trọng trong hoạt động thực hành quyền công tố. Đặc biệt, khi trực tiếp thực hành quyền công tố đối với các VAHS, theo quy định tại khoản 2 Điều 36 BLTTHS (2003), Viện trưởng VKSND có quyền và có trách nhiệm quyết định những vấn đề quan trọng nhất đối với việc giải quyết vụ án, chẳng hạn: quyết định khởi tố vụ án, quyết định không khởi tố vụ án, khởi tố bị can; yêu cầu CQĐT khởi tố hoặc thay đổi quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can; quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam và các biện pháp ngăn chặn khác; phê chuẩn, không phê chuẩn các quyết định của CQĐT; hủy bỏ các quyết định không có căn cứ và trái pháp luật của CQĐT; quyết định việc truy tố bị can; đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án…

Vai trò của VKS còn được thể hiện một cách đầy đủ cụ thể hơn ở từng nhiệm

vụ, quyền hạn của VKS trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự. Đó là: nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố; quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can; áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn trong hoạt động điều tra, truy tố; trong quá trình tiến hành các hoạt động điều tra cụ thể; trong việc quyết định đình chỉ điều tra, tạm đình chỉ điều tra, phục hồi điều tra và truy nã bị can; trong việc quyết định truy tố, đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án.

Với những nội dung trình bày ở trên cho thấy, VKS là cơ quan tiến hành tố tụng có vai trò chủ đạo và quyết định. Vì vậy, có thể nói vai trò của áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra VAHS của VKSND là vai trò chủ đạo và quyết định trong các hoạt động tố tụng ở giai đoạn điều tra VAHS.

1.2. Quy trình áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra của Viện kiểm sát nhân dân

ADPL là hoạt động phức tạp bao gồm nhiều giai đoạn khác nhau được pháp luật quy định chặt chẽ. Các giai đoạn của quy trình ADPL diễn ra kế tiếp nhau về mặt thời gian, trong đó giai đoạn trước là cơ sở, tiền đề cho giai đoạn sau. Do các quy phạm pháp luật thuộc nhiều lĩnh vực, nhiều ngành luật khác nhau, tùy thuộc vào tính chất của sự việc được xem xét mà pháp luật quy định trình tự, thủ tục áp dụng khác nhau. Có những vụ việc được pháp luật quy định trình tự, thủ tục áp dụng rất đơn giản, nhưng cũng có những vụ việc mà trình tự, thủ tục áp dụng được pháp luật quy định chặt chẽ, thực hiện bởi một hệ thống các cơ quan có thẩm quyền khác nhau.

ADPL trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra của VKSND là hoạt động phức tạp, trên thực tế có thể diễn biến rất đa dạng do mỗi VAHS đều có đặc thù riêng. Để phân chia các giai đoạn của quá trình ADPL này, chúng ta phải dựa vào tiêu chí chính là việc áp dụng các quy phạm pháp luật nội dung (quy phạm pháp luật hình sự), bởi mục đích chính của ADPL trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra của VKSND là việc ra văn bản ADPL để chứng minh tội phạm và xác định người phạm tội một cách chính xác. BLTHS là văn bản pháp lý cao nhất quy định về trình tự, thủ tục ADPL của các cơ quan tiến hành tố tụng. Việc tuân thủ trình tự, thủ tục

chặt chẽ của pháp luật tố tụng hình sự chính là việc áp dụng các quy phạm pháp luật hình thức, và trên thực tế, hoạt động này phải được tuân thủ xuyên suốt quá trình ADPL trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra của VKSND.

Từ những phân tích trên có thể đưa ra khái niệm sau: Quy trình áp ADPL trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra của VKSND là một hệ thống quy định về trình tự, thủ tục mà VKSND phải tuân thủ nhằm đảm bảo cho hoạt động điều tra, truy tố đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 129 trang tài liệu này.

Thông thường, để ADPL trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra một cách chính xác và đạt hiệu quả cao cần tuân thủ 4 giai đoạn sau:

1.2.1. Nghiên cứu, xem xét, đánh giá các tình tiết, chứng cứ, điều kiện, hoàn cảnh có liên quan đến sự kiện pháp lý, đối tượng và quyết định xử lý do Cơ quan điều tra cung cấp

Áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra của Viện kiểm sát nhân dân – Thực tiễn tại tỉnh Yên Bái - 6

Đây là khâu đầu tiên, có ý nghĩa quan trọng của ADPL trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra của VKSND. Việc VKS xem xét, đánh giá các tài liệu, chứng cứ và thủ tục tố tụng do CQĐT tiến hành trong các vụ án hình sự nhằm xác định tính có căn cứ, qua đó xác định tính chất, mức độ hành vi nguy hiểm cho xã hội của các đối tượng đã gây ra.

Trong quá trình xem xét, nghiên cứu, đánh giá, VKS phải tuân thủ các quy định của pháp luật tố tụng hình sự, đặc biệt là quy định về thời hạn ra văn bản ADPL. Nếu trước đó CQĐT thu thập tài liệu chứng cứ không đúng trình tự, thủ tục, không đầy đủ, không toàn diện thì việc xem xét đánh giá của VKS sẽ gặp khó khăn, dễ dẫn tới sai lầm trong khi ra văn bản ADPL. Do đó, phạm vi thực hành quyền công tố của VKSND phải được bắt đầu từ khâu giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố.

Theo quy định của pháp luật TTHS thì VKSND tự mình thông qua nguồn tin báo hoặc từ các tài liệu chứng cứ của CQĐT gửi tới để xem xét đánh giá sự kiện pháp lý đã xảy ra: Việc thu thập tài liệu chứng cứ có hợp pháp hay không, hành vi nguy hiểm cho xã hội đã đến mức phải xử lý bằng hình sự hay chỉ cần xử lý bằng biện pháp hành chính, người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội là ai, năng lực chịu TNHS như thế nào, đối tượng phạm tội có thể bị áp dụng biện pháp ngăn chặn

nào…? Tức là phải xem xét, đánh giá các yếu tố cấu thành tội phạm của đối tượng đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội. Trong quá trình xem xét, đánh giá các tài liệu chứng cứ ban đầu, VKSND cần phải có sự phân công trách nhiệm cụ thể rò ràng cho cán bộ, Kiểm sát viên, có sự phối kết hợp chặt chẽ với CQĐT. Có thể nói rằng, việc nghiên cứu hồ sơ vụ án ban đầu có một ý nghĩa hết sức quan trọng đảm bảo việc ra quyết định ADPL của VKS có chất lượng, việc giải quyết vụ án hình sự được tuân thủ theo quy định của pháp luật.

1.2.2. Lựa chọn quy phạm pháp luật, làm sáng tỏ nội dung tư tưởng của các quy phạm pháp luật được áp dụng trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra của Viện kiểm sát nhân dân

Cần lựa chọn chính xác quy phạm pháp luật mới bảo đảm cho hoạt động ADPL được chính xác. Giai đoạn này là quá trình vận dụng tổng hợp các tri thức về chính trị, kinh tế, xã hội, đặc biệt là các tri thức pháp lý của chủ thể ADPL. Kết quả của giai đoạn này phụ thuộc rất nhiều vào ý thức pháp luật, trình độ hiểu biết, kiến thức pháp luật của Kiểm sát viên.

Việc lựa chọn quy phạm được thực hiện ngay sau khi nghiên cứu, đánh giá chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, hoặc cũng có thể được thực hiện song song với quá trình nghiên cứu hồ sơ, đánh giá chứng cứ. Chủ thể có thẩm quyền ADPL trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra cần phải xem xét, đánh giá đầy đủ sự kiện pháp lý đã xảy ra, những biện pháp xử lý của CQĐT, yêu cầu và đề nghị của CQĐT đối với việc giải quyết vụ án; từ đó xác định nội dung quy phạm được áp dụng trong hoạt động thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra. Muốn làm được điều đó, đòi hỏi người có thẩm quyền ADPL phải tiến hành giải thích quy phạm pháp luật về mặt văn phạm, làm sáng tỏ tư tưởng, nội dung và ý nghĩa của quy phạm pháp luật được lựa chọn thông qua đối chiếu với các quy phạm khác. Ngoài ra, để làm rò nội dung, tư tưởng của quy phạm pháp luật cần áp dụng thì phải nghiên cứu các văn bản hướng dẫn ADPL của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, tham khảo tài liệu chuyên ngành, các công trình nghiên cứu, bài viết khoa học pháp lý...

Tóm lại, giai đoạn ADPL này đòi hỏi phải lựa chọn đúng quy phạm pháp luật được trù tính cho từng trường hợp cụ thể, quy phạm pháp luật áp dụng phải

đang có hiệu lực pháp luật và không mâu thuẫn với văn bản quy phạm pháp luật khác, xác định tính chính xác của văn bản pháp luật chứa đựng quy phạm pháp luật này, nhận thức đúng đắn nội dung, tư tưởng của quy phạm pháp luật cần áp dụng.

1.2.3. Ban hành văn bản áp dụng pháp luật

Đây là giai đoạn trọng tâm, quan trọng nhất của cả quá trình ADPL, là việc VKSND ban hành các quyết định có giá trị pháp lý bắt buộc thi hành với đối tượng bị áp dụng sau khi đã xem xét, đối chiếu một cách thận trọng, khách quan với toàn bộ những tài liệu, chứng cứ đã được thu thập trong hồ sơ vụ án. Vì các quyết định của VKS tác động trực tiếp đến lợi ích của Nhà nước, quyền tự do thân thể của công dân nên đòi hỏi người có thẩm quyền ban hành văn bản ADPL phải tuân thủ nghiêm ngặt trình tự, thủ tục, quy định của pháp luật TTHS hiện hành. Đặc biệt, văn bản ADPL của VKS phải có tính khả thi và hiện thực.

Tóm lại, để ban hành văn bản ADPL trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra, người có thẩm quyền ADPL phải có hiểu biết về pháp luật, biết tổng hợp, đánh giá các tình tiết vụ án, đồng thời phải có kỹ năng soạn thảo văn bản, đảm bảo chất lượng kỹ thuật văn bản ADPL.

1.2.4. Tổ chức thực hiện văn bản áp dụng pháp luật

Việc tổ chức thực hiện văn bản ADPL là giai đoạn cuối cùng của quá trình ADPL. Văn bản ADPL của VKSND trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra vụ án hình sự là các quyết định cá biệt, có giá trị pháp lý bắt buộc CQĐT phải thi hành và tổ chức thực hiện nghiêm minh.

1.3. Các yếu tố bảo đảm hoạt động áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra của Viện kiểm sát nhân dân

1.3.1. Các yếu tố khách quan

* Sự lãnh đạo của Đảng, sự quan tâm của Nhà nước

Đảng cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và toàn xã hội. Đảng lãnh đạo chặt chẽ, toàn diện về chính trị, tổ chức và cán bộ, từ việc xây dựng chủ trương, đường lối quan điểm đến việc chỉ đạo thực hiện đường lối, quan điểm đó. Có thể khẳng định, việc nắm vững đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật

của Nhà nước là một yêu cầu khách quan, bắt buộc đối với hoạt động ADPL trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra của VKSND. Bởi bản chất của hoạt động thực hành quyền công tố đòi hỏi tính có căn cứ và tính hợp pháp, do vậy đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước là vấn đề bắt buộc tuân thủ trong hoạt động này.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, trong thời gian qua, hoạt động tư pháp đã đạt được nhiều kết quả tích cực. Để đạt được kết quả cao hơn nữa, nhất là trong giai đoạn cải cách tư pháp hiện nay đòi hỏi phải tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo của Đảng với các cơ quan tiến hành tố tụng trong đó có VKSND. Đặc biệt, cần tập trung chỉ đạo sát sao việc thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Như vậy chắc chắn sẽ đảm bảo nâng cao chất lượng hoạt động ADPL trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra của VKSND.

* Bảo đảm về mặt pháp lý (hoàn thiện hệ thống pháp luật hình sự, tố tụng hình sự và các văn bản pháp luật có liên quan)

Một trong những yêu cầu của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền là phải có một hệ thống pháp luật đầy đủ, có tính khả thi cao trong thực tế. Pháp luật phải thể chế hoá một cách kịp thời và chính xác đường lối đổi mới của Đảng. Cơ sở pháp lý chủ yếu để ADPL trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra của VKSND là BLHS (ngành luật nội dung) và BLTTHS (ngành luật hình thức), ngoài ra cần ban hành, sửa đổi, bổ sung và hướng dẫn kịp thời các văn bản pháp luật liên quan, có như vậy mới bảo đảm hoạt động ADPL được chính xác và thống nhất.

* Sự giám sát chặt chẽ của Hội đồng nhân dân, các tổ chức xã hội và mọi công dân

Đây là yếu tố rất quan trọng để đảm bảo chất lượng ADPL trong thực hành quyền công tố của VKSND. Điều 32 BLTTHS quy định:

Cơ quan nhà nước, Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận, đại biểu dân cử có quyền giám sát hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng; giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

Nếu phát hiện những hành vi trái pháp luật của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng thì cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử có quyền yêu cầu Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận có quyền kiến nghị với cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền xem xét, giải quyết theo quy định của Bộ luật này. Cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền phải xem xét, giải quyết và trả lời kiến nghị, yêu cầu đó theo quy định của pháp luật.

Hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân, tổ chức xã hội và mọi công dân được thực hiện dưới nhiều hình thức, trong đó hình thức chất vấn của các đại biểu Hội đồng nhân dân mang lại hiệu quả cao. Sự giám sát này bảo đảm tính công khai, dân chủ trong tất cả các hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng, phát huy được sức mạnh tập thể, kịp thời sửa chữa những vi phạm; từ đó hoàn thiện, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động ADPL trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra của VKSND.

* Bảo đảm sự lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành trong ngành Kiểm sát nhân dân

Vai trò của Viện trưởng VKSND tối cao đối với chất lượng hoạt động thực hành quyền công tố nói chung, hoạt động ADPL trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra nói riêng là yếu tố khách quan, xuất phát từ nguyên tắc tổ chức của VKSND. Cần tăng cường công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành cả về công việc và con người, phải có sự sắp xếp, phân công hợp lý cán bộ, KSV trong các bộ phận công tác để phát huy có hiệu quả năng lực mỗi cán bộ, KSV. Sự quản lý, chỉ đạo của Viện trưởng phải đảm bảo đồng đều, nhịp nhàng, thống nhất trong toàn bộ hoạt động của đơn vị, tuy nhiên cần tập trung quản lý chặt chẽ những hoạt động quan trọng trong công tác thực hành quyền công tố (vì đây là nhiệm vụ chính của ngành).

Để nâng cao hiệu quả ADPL trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điêu tra của VKSND còn đòi hỏi phải tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của Viện trưởng VKSND cấp trên đối với cấp dưới; đồng thời tăng cường kiểm tra hoạt động của VKS cấp dưới. Nâng cao vai trò, trách nhiệm của Viện trưởng VKSND không đồng nghĩa với việc Viện trưởng làm thay các công việc của KSV mà phải có sự phân định về quyền hạn, trách nhiệm của Viện trưởng với KSV trên cơ sở pháp luật quy định.

* Bảo đảm mối quan hệ chặt chẽ giữa VKS với CQĐT và các cơ quan tiến hành tố tụng tại địa phương

Để thực hiện tốt hoạt động ADPL trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra của VKSND thì quan hệ phối hợp giữa VKSND với các cơ quan tư pháp trên địa bàn đóng một vai trò hết sức quan trọng. Đó là sự thống nhất từ khâu chỉ đạo, điều hành giữa các cấp lãnh đạo các cơ quan tư pháp với nhau cũng như giữa các cơ quan tư pháp với VKSND. Sự thống nhất về ý chí và phối hợp có hiệu quả trong hoạt động của các cơ quan tư pháp nói chung và giữa VKSND với các cơ quan tư pháp khác nói riêng là điều kiện then chốt để phòng, chống tội phạm có hiệu quả. Bởi thực hành quyền công tố là chức năng của VKSND, nhưng việc truy cứu TNHS đối với người phạm tội còn phụ thuộc vào hoạt động điều tra của CQĐT và hoạt động xét xử của Tòa án; và sau khi bản án có hiệu lực thì còn phụ thuộc vào hoạt động của Cơ quan thi hành án. Mặc dù cùng nằm trong hệ thống các cơ quan tư pháp nhưng các cơ quan này lại có vị trí độc lập (tương đối) với hoạt động của VKSND. Để bảo đảm hoạt động ADPL trong thực hành quyền công tố thì sự phối hợp giữa các cơ quan tư pháp với VKSND có ý nghĩa hết sức quan trọng.

Trong quá trình giải quyết các vụ án cụ thể thì sự phối hợp giữa những người tiến hành tố tụng phải chặt chẽ trên tinh thần cầu thị, thượng tôn pháp luật, kiên quyết đấu tranh với các hành vi vi phạm pháp luật và tội phạm cũng như các biểu hiện tiêu cực, tham nhũng trong khi thi hành công vụ.

* Bảo đảm các điều kiện về cơ sở vật chất, trang thiết bị, chế độ đãi ngộ với cán bộ, Kiểm sát viên

Nghị quyết số 08-NQ/TW chỉ rò:

Cơ sở vật chất, điều kiện làm việc của các cơ quan tư pháp chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, nhất là ở cấp huyện nhiều nơi trụ sở còn rất chật chội, phương tiện làm việc vừa thiếu lại vừa lạc hậu; chính sách đối với cán bộ tư pháp chưa tương xứng với nhiệm vụ và trách nhiệm được giao [5].

Nhận thấy rò việc đầu tư cơ sở vật chất, chế độ, trang thiết bị phục vụ công tác

Xem tất cả 129 trang.

Ngày đăng: 26/06/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí