Khái Niệm Và Đặc Điểm Áp Dụng Pháp Luật Thực Hành Quyền Công Tố Trong Giai Đoạn Điều Tra Các Tội Phạm Ma Tuý Của Viện Kiểm Sát Nhân Dân


các biện pháp ngăn chặn khác; phê chuẩn, không phê chuẩn các quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn của Cơ quan điều tra theo quy định của pháp luật;

- Phê chuẩn lệnh khám xét của Cơ quan điều tra.

+ Những biện phỏp xử lý vụ ỏn gồm:

- Quyết định truy tố bị can ra Tũa để thực hiện việc xét xử;

- Quyết định đỡnh chỉ vụ ỏn, bị can theo quy định của pháp luật.

Cơ quan điều tra cũng có quyền đỡnh chỉ điều tra vụ án, bị can nhưng phải luôn được đặt dưới sự kiểm sát của Viện kiểm sát. Qua kiểm sát, nếu Viện kiểm sát phát hiện việc đỡnh chỉ đó không có căn cứ và trái pháp luật thỡ Viện kiểm sỏt cú quyền yờu cầu Cơ quan điều tra hủy bỏ để phục hồi điều tra hoặc ra quyết định hủy bỏ và yêu cầu Cơ quan điều tra phục hồi điều tra.

+ Những hoạt động thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát tại phiên tũa, gồm cú: đọc cáo trạng, thẩm vấn, luận tội tại phiên tũa sơ thẩm; phát biểu quan điểm của Viện kiểm sát về hành vi phạm tội của bị cáo có kháng cỏo, khỏng nghị tại cỏc phiờn tũa xột xử phỳc thẩm, giỏm đốc thẩm hoặc tái thẩm.

Như vậy, theo quy định của pháp luật, Viện kiểm sát có rất nhiều quyền năng pháp lý cụ thể để thực hành quyền công tố. Trong số đó, trừ quyền truy tố bị can ra tũa là quyền duy nhất chỉ cú ở Viện kiểm sỏt, cỏc quyền khỏc thỡ Cơ quan điều tra, Tũa ỏn và cỏc cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra cũng có quyền thực hiện. Chính vỡ vậy, hiện vẫn tồn tại nhiều quan điểm cho rằng, các cơ quan trên cũng thực hành quyền công tố.

Ở đây đó cú sự nhầm lẫn giữa quyền năng tố tụng với quyền của cơ quan công tố. Chỉ có cơ quan nào sử dụng tất cả các quyền năng pháp lý cần thiết để truy cứu trách nhiệm hỡnh sự đối với người phạm tội mới là cơ quan thực hành quyền công tố. Ở nước ta chỉ có Viện kiểm sát là cơ quan duy nhất thực hành quyền công tố, Cơ quan điều tra chỉ là người hỗ trợ Viện kiểm sát đưa vụ án ra tũa, Tũa ỏn chỉ xột xử những tội phạm và người phạm tội mà Viện kiểm sát đó truy tố [10, tr.46].

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 87 trang tài liệu này.


Với những phân tích trên có thể quan niệm, nội dung thực hành quyền công tố là việc Viện kiểm sát sử dụng các quyền năng tố tụng độc lập do pháp luật quy định nhằm truy cứu trách nhiệm hỡnh sự đối với người phạm tội, không để lọt người, lọt tội, không làm oan người vô tội, được thực hiện ngay từ khi khởi tố vụ án và trong suốt quá trỡnh tố tụng.

Áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra các tội phạm ma tuý của viện kiểm soát nhân dân cấp tỉnh Nghệ An - 3

Từ những vấn đề đó được trỡnh bày ở trờn về khỏi nhiệm, phạm vi và nội dung của thực hành quyền cụng tố, cú thể đi đến kết luận về khái niệm, phạm vi và nội dung của thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra của Viện KSND như sau:

Thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra của Viện kiểm sát nhân dân là việc Viện kiểm sát sử dụng tổng hợp các quyền năng pháp lý thuộc nội dung quyền công tố để truy cứu trách nhiệm hỡnh sự đối với người phạm tội, được thực hiện từ khi khởi tố vụ án và kết thúc khi Viện kiểm sát quyết định truy tố bị can ra trước Tũa ỏn để xét xử hoặc khi vụ án được đỡnh chỉ theo quy định của pháp luật tố tụng hỡnh sự.

1.1.2.2. Khái niệm và đặc điểm áp dụng pháp luật thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các tội phạm ma tuý của Viện kiểm sát nhân dân

+ Khái niệm ADPL trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra các tội phạm ma tuý của VKSND

ADPL trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra các tội phạm ma tuý của VKSND là một dạng của áp dụng pháp luật nói chung. ADPL trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra của viện kiểm sát nhân dân đối với tội phạm ma tuý thuộc trường hợp áp dụng pháp luật: Khi Nhà nước thấy cần thiết phải tham gia bằng hỡnh thức giỏm sỏt hoạt động của các chủ thể trong các quan hệ điều tra các tội phạm ma tuý. Cơ sở phát sinh hoạt động áp dụng pháp luật của Viện kiểm sát nhân dân đó là các quyết định của cơ quan điều tra, các hành vi của những người tiến hành tố tụng trong hoạt động TTHS. Các quyết định và các hành vi đó có thể được ban hành, thực hiện theo đúng hoặc không đúng quy định của pháp luật. Khi đó Nhà nước thông qua hệ thống cơ quan VKSND hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các CQĐT, và các đương sự, cá nhân có liên quan nhằm phát


hiện những sai phạm, những lệch lạc. Trên cơ sở đó VKSND đã dựa vào pháp luật để ra các quyết định, như quyết định phê chuẩn quyết định khởi tố bị can hoặc kiến nghị đối với các chủ thể trong quá trình điều tra các vụ án hình sự, khắc phục, sửa chữa những thiếu sót, sai phạm đảm bảo cho việc giải quyết các vụ án hình sự được tuân thủ theo các quy định của pháp luật.

Từ khái niệm về áp dụng pháp luật nói chung và từ sự phân tích về hoạt động ADPL thực hành quyền công tố của VKS ở giai đoạn điều tra các tội phạm ma túy, chúng ta có thể rút ra khái niệm về áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra các tội phạm ma tuý của viện kiểm nhõn dõn là hoạt động mang tính tổ chức, tính quyền lực Nhà nước, trong đó Nhà nước thông qua các cơ quan VKSND có thẩm quyền căn cứ vào các quy định pháp luật hình sự, TTHS và các quy định pháp luật khác để ra các quyết định cá biệt(văn bản ADPL) làm phát sinh thay đổi, chấm dứt các quan hệ xã hội trong giai đoạn điều tra các tội phạm ma túy được nghiêm minh, đúng pháp luật.

+ Đặc điểm áp dụng pháp luật thực thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra các tội phạm ma tuý của VKSND

Hoạt động áp dụng pháp luật trong thực hành quyền cụng tố ở giai đoạn điều tra các tội phạm ma tuý của viện kiểm nhân dân có một số đặc điểm cơ bản sau:

Thứ nhất, áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra nói chung cũng như đối với các tội phạm ma tuý chỉ do viện kiểm sát nhân dân tiến hành theo pháp luật quy định.

Ở Việt Nam, VKS là cơ quan duy nhất thực hiện chức năng công tố và Kiểm sát các HĐTP. Quyền công tố, như đã phân tích ở trên là quyền của Nhà nước truy cứu TNHS đối với người phạm tội, được thực hiện từ khi có tội phạm xảy ra và kết thúc khi có bản án có hiệu lực của Toà án. Để thực hiện chức năng công tố, pháp luật trao cho ngành Kiểm sát một hệ thống các quyền năng pháp lý rộng lớn, trong đó có những quyền chỉ VKS mới được thực hiện như quyền truy tố bị can ra Toà để xét xử; bên cạnh đó có những quyền CQĐT được thực hiện như khởi tố vụ án, bị can, ra lệnh bắt, tạm giữ, tạm giam…đối với các tội phạm ma tuý, chủ yếu do


CQĐT tiến hành, hàng năm số vụ án về ma tuý rất nhiều. Tuy nhiên, VKS vẫn là cơ quan duy nhất được thực hiện quyền công tố độc lập. Tất cả các lệnh, quyết định của CQĐT liên quan đến vụ án, bị can đều phải được đặt dưới sự kiểm sát của VKS, trong đó có một số lệnh, quyết định phải được sự phê chuẩn trước của VKS mới có giá trị pháp lý như quyết định khởi tố bị can, lệnh gia hạn tạm giữ, tạm giam… trong điều tra, VKS không trực tiếp điều tra vụ án, và cũng không phải là cơ quan giữ vai trò chính trong việc khởi tố vụ án, bị can cũng như ra các quyết định, nhưng không vì thế mà vai trò của VKS bị giảm sút. Với tư cách là cơ quan duy nhất được pháp luật trao thực hành quyền công tố, VKS được sử dụng mọi quyền năng pháp lý do pháp luật quy định để truy cứu TNHS đối với người phạm tội. Mọi quyết định ADPL trong giai đoạn điều tra đều tác động trực tiếp đến các quyền cơ bản của đối tuợng bị áp dụng. Vì vậy, đòi hỏi VKS phải thận trọng, khách quan trong việc xem xét, đánh giá chứng cứ, tài liệu do CQĐT cung cấp trước khi quyết định áp dụng pháp luật.

Thứ hai, áp dụng pháp luật trong thực hành quyền cụng tố ở giai đoạn điều tra của Viện kiểm sát nhân dân đối với tội phạm nói chung cũng như đối với tội phạm ma tuý nói riêng, được tiến hành theo một trình tự, thủ tục do pháp luật quy định chặt chẽ nhằm cá biệt hoá các quy định pháp luật hình sự và TTHS vào các trường hợp cụ thể.

Trong hoạt động điều tra, khám phá các vụ án hỡnh sự của cơ quan điều tra, trong thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của viện kiểm sát nhân dân, đó là một quá trỡnh thực hiện chức năng, nhiệm vụ của hai cơ quan Công an và viện kiểm sát. Đây là những hoạt động rất quan trọng có tính quyết định trong quá trỡnh giải quyết những vụ ỏn hỡnh sự. Chớnh vỡ vậy nờn phỏp luật núi chung và phỏp luật tố tụng hiện hành núi riêng đó quy định rất chặt chẽ việc áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra của Viện kiểm nhân dân đối với tội phạm ma tuý. Pháp luật TTHS quy định chặt chẽ trỡnh tự, thủ tục của cỏc hoạt động điều tra, hoạt động giám sát như: từ việc khởi tố vụ án, khởi tố bị can, các biện pháp điều tra, các biện pháp ngăn chặn, nhập, tách vụ án, đỡnh chỉ, tạm đỡnh chỉ vụ ỏn, thời hiệu điều tra, thời hạn


điều tra … Tóm lại, Tất cả các bước trong quá trỡnh điều tra các vụ án hỡnh sự, hoạt động ADPL trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra của viện kiểm nhân dân đối với tội phạm hình sự nói chung và tội phạm ma tuý đều được quy định chặt chẽ theo các trỡnh tự thủ tục do phỏp luật TTHS hiện hành quy định.

Thứ ba, áp dụng pháp luật thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra của VKSND nói chung cũng như đối với tội phạm ma tuý, là hoạt động ADPL cá biệt do VKS thực hiện đối với tội phạm ma tuý.

Khi THQCT và KSĐT án hình sự, VKS vừa có quyền nhưng cũng phải có nghĩa vụ thực hiện các quyền năng pháp lý thuộc nội dung công tố và KSHĐTP theo quy đinh của pháp luật nhằm đảm bảo thu thập tài liệu, chứng cứ xác định tội phạm và người phạm tội. Trên cơ sở đó, truy tố bị can phạm tội ma tuý ra trước Toà án để xét xử. Những hoạt động này được thực hiện theo một trình tự, thủ tục chặt chẽ do pháp luật tố tụng hình sự quy định nhằm xác đinh: có hay không có hành vi phạm tội ma tuý xảy ra, nếu có thì phạm tội gì, được quy định trong điều khoản nào của BLHS, ai là người thực hiện hành vi tội phạm tội ma túy…

Thủ tục tố tụng mà CQĐT tiến hành có đúng với quy định của BLTTHS hay không? những tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, với tư cách là cơ quan THQCT, VKS có trách nhiệm xem xét, nghiên cứu hồ sơ một cách khách quan, toàn diện, trên cơ sở đó ra văn bản ADPL đảm bảo có căn cứ và đúng pháp luật. Mục đích ban hành văn bản ADPL là nhằm đảm bảo việc khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử các vụ án hình sự nói chung cũng như các tội phạm ma tuý nói riêng, được đúng người, đúng tội và đúng pháp luật, không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội. Vì vậy, ADPL trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra của VKS nói chung và các tội phạm ma tuý nói riêng chỉ được tiến hành đối với vụ án hình sự về ma tuý.

1.2. Các giai đoạn và nội dung áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra các tội phạm ma tuý của viện kiểm sát nhân dân


1.2.1. Các giai đoạn áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra các tội phạm ma tuý

áp dụng pháp luật là hoạt động phức tạp, bao gồm nhiều giai đoạn khác nhau được pháp luật quy định chặt chẽ. Các giai đoạn ADPL diễn ra kế tiếp nhau về mặt thời gian, trong đó giai đoạn trước là cơ sở, tiền đề của giai đoạn sau. Lý luận chung về ADPL phân chia hoạt động ADPL thành bốn giai đoạn, đó là: 1. Nghiên cứu, xem xét, đánh giá các tỡnh tiết, chứng cứ có liên quan đến sự kiện pháp lý, đối tượng và quyết định xử lý do cơ quan điều tra cung cấp; 2. Xem xét các quy phạm pháp luật được áp dụng trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra của viện kiểm sát nhân dân đối với các tội phạm ma tuý; 3. Ban hành văn bản áp dụng pháp luật; 4. Tổ chức thực hiện văn bản ADPL. Thực ra, việc phân chia ADPL thành các giai đoạn như trên chỉ mang tính chất tương đối nhằm phục vụ cho mục đích nghiên cứu. Trên thực tế, ADPL là hoạt động được tiến hành liên tục ngay sau khi có sự kiện pháp lý xảy ra cho đến khi ban hành văn bản ADPL và tổ chức thực hiện văn bản đó. ADPL là hoạt động mang tính cá biệt, luôn có đối tượng xác định.

ADPL trong Thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra các tội phạm ma tuý của VKSND cũng giống như ADPL trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra là hoạt động có nội dung rộng, phức tạp. Bởi vậy, không thể có quy trình chung cho việc ban hành tất cả các loại văn bản ADPL. Trên cơ sở quy định của BLTTHS, các văn bản hướng dẩn của ngành Kiểm sát và lý luận chung về quy trình ADPL, có thể chia ADPL trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra của VKS thành các giai đoạn sau.

Giai đoạn thứ nhất, nghiên cứu, xem xét, đánh giá cỏc tỡnh tiết, chứng cứ có liên quan đến sự kiện phỏp lý, đối tượng và quyết định xử lý do cơ quan điều tra cung cấp đối với các tội phạm ma túy.

Đây là khâu đầu tiên, cú ý nghĩa quan trọng của ỏp dụng phỏp luật trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra của viện kiểm sát nhân dân đối với các tội phạm ma tuý. Việc viện Kiểm sát nhân dân xem xét, đánh giá các tài liệu, chứng cứ và thủ tục tố tụng do cơ quan điều tra tiến hành trong các vụ án hỡnh sự, nhằm


xỏc định tính có căn cứ, qua đó xác định tính chất, mức độ hành vi nguy hiểm cho xó hội của cỏc đối tượng đó gõy ra: cú hay khụng cú hành vi phạm tội ma túy? Hành vi tội phạm ma túy đó ở mức độ nào? Xảy ra ở đâu? Khi nào? Ai là người thực hiện? Công cụ phương tiện phạm tội? Nhân thân? Năng lực chịu trách nhiệm hỡnh sự? Trỡnh tự, thủ tục thu thập tài liệu chứng cứ …

Nếu trước đó cơ quan điều tra thu thập tài liệu chứng cứ không đúng trỡnh tự, thủ tục, khụng đầy đủ, không toàn diện thỡ việc xem xột đánh giá của Viện kiểm sát nhân dân sẽ gặp khó khăn, dễ dẫn tới sai lầm trong khi ra văn bản áp dụng pháp luật. Do đó, phạm vi thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân phải được bắt đầu từ khâu tiếp nhận, xử lý tin bỏo liờn quan tới tội phạm ma túy.

Theo quy định của phỏp luật tố tụng hỡnh sự thỡ Viện kiểm sỏt nhõn dõn tự mỡnh thụng qua cỏc nguồn tin bỏo hoặc từ cỏc tài liệu chứng cứ của cơ quan điều tra gửi tới để xem xét đánh giá sự kiện pháp lý đó xảy ra: Việc thu thập tài liệu chứng cứ cú hợp phỏp hay khụng, hành vi nguy hiểm cho xó hội đó đến lúc phải xử lý bằng hỡnh sự hay chỉ cần xử lý bằng biện phỏp hành chớnh, người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xó hội là ai, năng lực chịu trách nhiệm hỡnh sự, đối tượng phạm tội có thể bị áp dụng biện pháp ngăn chặn … tức là phải xem xét đánh giá các yếu tố cấu thành tội phạm về ma túy của đối tượng đó thực hiện hành vi nguy hiểm cho xó hội. Trong quỏ trỡnh xem xột đánh giá các tài liệu chứng cứ ban đầu của vụ án hỡnh sự về ma túy, Viện kiểm sát nhân dân cần phải cú sự phõn cụng trỏch nhiệm cụ thể rừ ràng cho cỏn bộ, Kiểm sát viên, có sự phối kết hợp chặt chẽ với cơ quan Điều tra. Có thể nói rằng, việc nghiên cứu hồ sơ vụ án ban đầu có một ý nghĩa hết sức quan trọng đảm bảo cho việc ra quyết định áp dụng pháp luật của Viện kiểm sát nhân dân có chất lượng, đảm bảo cho việc giải quyết vụ án hỡnh sự được tuân thủ theo quy định của pháp luật.

Giai đoạn thứ hai, xem xét các quy phạm pháp luật được áp dụng trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra của Viện kiểm sát nhân dân đối với các tội phạm ma tuý.


Giai đoạn này được thực hiện dựa trên ý thức phỏp luật, trỡnh độ hiểu biết kiến thức pháp luật của chủ thể có thẩm quyền áp dụng pháp luật. Người có thẩm quyền áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra của viện kiểm sát nhân dân đối với các tội phạm ma tuý cần phải xem xét, đánh giá đầy đủ sự kiện pháp lý đó xảy ra, những công việc đó xử lý của cơ quan Điều tra, yêu cầu và đề nghị của cơ quan Điều tra đối với việc giải quyết vụ án. Để từ đó xác định nội dung quy phạm được áp dụng, phạm vi pháp luật được áp dụng. Muốn làm được điều đó, đũi hỏi người có thẩm quyền áp dụng pháp luật phải tiến hành giải thích quy phạm pháp luật; phải làm sáng tỏ tư tưởng; nội dung và ý nghĩa của quy phạm pháp luật được lựa chọn. Việc lựa chọn quy phạm pháp luật đúng thỡ việc ra quyết định áp dụng pháp luật sẽ chính xác. Tóm lại, giai đoạn áp dụng pháp luật này cần đũi hỏi: lựa chọn đúng quy phạm pháp luật được trù tính cho trường hợp đó; quy phạm pháp luật áp dụng phải là quy phạm pháp luật đang có hiệu lực pháp luật và không mâu thuẫn với văn bản quy phạm pháp luật khác; xác định tính chính xác của văn bản quy phạm pháp luật chứa đựng quy phạm này; nhận thức đúng đắn nội dung, tư tưởng của quy phạm pháp luật.

Giai đoạn thứ ba, ban hành văn bản áp dụng pháp luật:

Ban hành văn bản áp dụng pháp luật là việc Viện kiểm sát nhân dân ra các quyết định; quyết định phê chuẩn hoặc không phê chuẩn. Đây là giai đoạn trọng tâm, quan trọng nhất của cả quá trỡnh thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra của Viện kiểm sát nhân dân. Ban hành quyết định phê chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân trong lĩnh vực này được đưa ra sau khi đó xem xột, đối chiếu một cách thận trọng, khách quan với toàn bộ những tài liệu, chứng cứ đó được thu thập trong hồ sơ vụ án về ma túy. Vỡ quyết định của Viện kiểm sát nhân dân đụng chạm trực tiếp đến lợi ích của Nhà nước, đến trật tự trị an trên địa bàn và đến quyền tự do thân thể của công dân, nên đũi hỏi người có thẩm quyền ra văn bản áp dụng pháp luật phải tuân thủ nghiêm ngặt theo các trỡnh tự, thủ tục, quy định của pháp luật tố tụng hiện hành. Đặc biệt văn bản áp dụng pháp luật của Viện kiểm sát nhân dân phải có tính khả thi và hiện thực. Tóm lại, để ban hành


văn bản áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra của người có thẩm quyền áp dụng pháp luật của Viện kiểm sát nhân dân phải hiểu biết về mặt pháp luật, biết tổng hợp, đánh giá các tỡnh tiết vụ ỏn, đồng thời phải có kỹ năng soạn thảo văn bản, đảm bảo chất lượng kỹ thuật văn bản.

Giai đoạn thứ tư, tổ chức thực hiện văn bản áp dụng pháp luật

Việc tổ chức thực hiện văn bản áp dụng pháp luật là giai đoạn cuối cùng của quá trỡnh ỏp dụng phỏp luật. Khỏc với cỏc văn bản áp dụng pháp luật của các cơ quan nhà nước khác, văn bản áp dụng pháp luật của Viện kiểm sát nhân dân trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra đối với các tội phạm ma tuý nó là lệnh, quyết định, quyết định không phê chuẩn, quyết định phê chuẩn buộc cơ quan điều tra phải thi hành và tổ chức thực hiện nghiêm minh. Giám sát việc thực hiện các văn bản áp dụng pháp luật của Viện kiểm sát nhân dân đối với toàn bộ hoạt động điều tra vừa là chức năng, vừa là nhiệm vụ của ngành Kiểm sát đó được pháp luật quy định chặt chẽ và đầy đủ. Đó là một trong những đảm bảo quan trọng để quyết định của Viện kiểm sát nhân dân được thực hiện một cách nghiêm chỉnh.

1.2.2. Nội dung áp dụng pháp luật thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các tội phạm ma tuý

ADPL trong thực hành quyền công tố ở gai đoạn điều tra các tội phạm nói chung cũng như đối với các tội phạm ma tuý có vai trò quan trọng trong việc đấu tranh phòng chống tội phạm đảm bảo mọi hành vi phạm tội đều phải được khởi tố, điều tra xử lý kịp thời, không để lọt tội phạm và người phạm tội cũng như không làm oan người vô tội.

Đặc biệt là tội phạm ma tuý, là loại tội phạm nguy hiểm cho xã hội, nó gây ra tác hại nhiều mặt cho xã hội, cản trở sự phát triển cho xã hội và là nguyên nhân làm suy kiệt nòi giống. Vì vậy, Đảng và Nhà nước ta coi tội phạm ma tuý là nguy cơ, mục tiêu đấu tranh, xử lý nghiêm khắc để dần loại trừ loại tội phạm này ra khỏi đời sống xã hội.

Việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các bị can phạm tội ma tuý phải có căn cứ, đúng pháp luật. Để thực hiện được vai trò ADPL trong THQCT ở giai


đoạn điều tra các tội phạm nói chung và các tội phạm ma tuý nói riêng ở gai đoạn điều tra.

Theo quy định của Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002 và Bộ luật Tố tụng Hỡnh sự năm 2003, nội dung ADPL trong thực hành quyền cụng tố ở giai đoạn điều tra các tội phạm ma tuý của Viện kiểm sát nhân dân bao gồm:

* Khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can; yêu cầu CQĐT khởi tố hoặc thay đổi quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can đối với tội phạm ma tuý.

- Khởi tố vụ án hình sự là những biện pháp phát động quyền công tố, mở đầu quá trỡnh điều tra xử lý TNHS đối với tội phạm và người thực hiện hành vi phạm tội về ma tuý. Tuy nhiên, phát động quyền công tố không phải là quyền năng riêng có của Viện kiểm sát. Theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hỡnh sự (Điều 104), các cơ quan có thẩm quyền khởi tố vụ án, bị can bao gồm: Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tũa ỏn và các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra như Bộ đội Biên phũng, Hải quan, Kiểm lõm, lực lượng Cảnh sát biển... Trên thực tế, việc khởi tố vụ án, khởi tố bị can chủ yếu do CQĐT các cấp tiến hành, số vụ án VKS trực tiếp khởi tố hầu như không đáng kể. Tuy vậy, Viện kiểm sát vẫn là cơ quan duy nhất được quyền khởi tố vụ án hỡnh sự một cỏch độc lập, không chịu sự ràng buộc về mặt cơ chế tố tụng của bất kỳ một cơ quan nhà nước nào. Trong trường hợp CQĐT kết thúc điều tra chuyển hồ sơ cho VKS đề nghị truy tố bị can, nếu VKS phát hiện trong vụ án còn có bị can khác thực hiện hành vi phạm tội mà chưa được khởi tố thì VKS trực tiếp ra quyết định khởi tố bị can, yêu cầu CQĐT điều tra bổ sung. Theo quy định của BLTTHS, Viện kiểm sát nhân dân có quyền ra quyết định khởi tố vụ án hình sự trong trường hợp CQĐT hoặc các cơ quan khác được giao một số nhiệm vụ điều tra khi có tội phạm xảy ra nhưng kết luận không có sự việc phạm tội hoặc hành vi đó chưa đến mức phải xử lý bằng hình sự và ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự, qua Kiểm sát phát hiện thấy việc kết luận và quyết định không khởi tố vụ án của cơ quan điều tra hoặc các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành điều tra không có căn cứ, bỏ lọt tội phạm nên VKS huỷ quyết định không khởi tố vụ án của Cơ quan điều tra và các cơ quan được giao


nhiệm vụ điều tra và trực tiếp ra quyết định khởi tố vụ án hình sự yêu cầu các cơ quan trên tiến hành điều tra theo quy định của pháp luật.

- Trong qua trình điều tra vụ án hình sự, khi có căn cứ xác định còn có người khác thực hiện hành vi phạm tội trong vụ án ma tuý, nhưng CQĐT không khởi tố, hoặc hành vi phạm tội của bị can không phạm vào tội đã bị khởi tố, VKS yêu cầu cơ quan điều tra ra quyết định khởi tố bị can, hoặc ra quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố bị can. Đối với trường hợp VKS trực tiếp ra quyết định khởi tố bị can phạm tội ma tuý, khi vụ án ma tuý đã kết thức điều tra chuyển VKS đề nghị truy tố. Qua Kiểm sát phát hiện có bị can phạm tội ma tuý khác chưa được khởi tố thì VKS trực tiếp ra quyết định khởi tố bị can và trả hồ sơ cho CQĐT yêu cầu điều tra.

* Đề ra yêu cầu điều tra, trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra theo quy định của pháp luật đối với các tội phạm ma tuý.

Khi KSV được phân công tiến hành tố tụng đối với các tội phạm ma tuý thì qua nghiên cứu hồ sơ vụ án KSV phải có trách nhiệm đề ra yêu cầu điều tra ngay từ khi có quyết định khởi tố vụ án và trong suốt quá trình điều tra, yêu cầu điều tra của KSV phải cụ thể, toàn diện, làm rõ, tập trung những chứng cứ xác định có tội và những chứng cứ xác định vô tội, những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS. Việc yêu cầu điều tra của KSV phải bằng văn bản và được gửi cho CQĐT để tiến hành điều tra. Muốn yêu cầu điều tra có chất lượng buộc KSV phải nghiên cứu hồ sơ vụ án thật tỷ mỷ, chi tiết và đánh giá vụ án khách quan, khoa học tránh áp đặt ý chí. Trong vụ án phạm tội ma túy yêu cầu điều tra không phải một lần mà có những vụ án KSV phải yêu cầu CQĐT nhiều lần. Trong hoạt động này rừ ràng VKS phải tiến hành hoạt động áp dụng pháp luật.

* Những biện pháp áp dụng TNHS đối với người phạm tội ma tuý gồm

cú:

- Quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam và

các biện pháp ngăn chặn khác; phê chuẩn, không phê chuẩn các quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn của Cơ quan điều tra đối với các tội


phạm ma tuý theo quy định của pháp luật.

Vai trò của VKS trong hoạt động THQCT và Kiểm sát các hoạt động tư pháp ở giai đoạn điều tra vụ án hình sự nói chung, các tội phạm ma tuý nói riêng được BLTTHS quy định của VKS trong việc áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ các biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn điều tra, cũng như trách nhiệm pháp lý của VKS đối với công tác bắt, giam, giữ. Việc bắt khẩn cấp, gia hạn tạm giữ, tạm giam bị can, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để đảm bảo thi hành phải được VKS xem xét, phê chuẩn đối với từng trường hợp và đối tượng cụ thể. Việc xét phê chuẩn của VKS được thể hiện bằng văn bản. Theo quy định của BLTTHS năm 2003, khi thực hành quyền công tố và Kiểm sát hoạt động điều tra, VKS có quyền phê chuẩn lênh bắt khẩn cấp; quyết định việc tạm giữ; tạm giam, bảo lãnh, cấm đi khởi nơi cư trú, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm.

Ngoài thẩm quyền quyết định trong việc bắt khẩn cấp, tạm giữ, tạm giam, BLTTHS năm 2003 còn quy định VKS có quyền ra lệnh cấm bị can, bị cáo, đi khỏi nơi cư trú(điều 91), quyết định cho bị can được bảo lĩnh (điều 92) và quyết định cho bị can được đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm(điều 93).

Như vậy, theo quy định của BLTTHS năm 2003, VKS có thẩm quyền quyết định việc áp dụng, thay đổi hoặc huỷ bỏ các biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn điều tra, truy tố các tội phạm về ma tuý.

* Những biện phỏp xử lý vụ ỏn gồm:

- Quyết định truy tố bị can phạm tội ma tuý ra Toà án để thực hiện việc xét xử; khi cuộc điều tra kết thúc, CQĐT phải có bản kết luận điều tra trong đó nêu rõ các kết quả mà cuộc điều tra đã thu thập được, quan điểm về đường lối xử lý vụ án, bị can. Bản kết luận điều tra được gửi đến VKS cùng toàn bộ hồ sơ vụ án, khi hồ sơ vụ án phạm tội ma tuý chuyển sang VKS thì KSV phải nghiên cứu một cách cụ thể, đầy đủ vụ án, từ đó đánh giá một cách toàn diện, khách quan các tài liệu, chứng cứ mà cơ quan điều tra đã thu thập được, xác định có hay không có hành vi phạm tội, tội danh, điều khoản áp dụng đối với bị can đồng thời đánh giá tính chất, mức độ, mục đích, động cơ cũng như các tình tiết khác

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 26/04/2022