Quyền Thành Lập, Gia Nhập Và Hoạt Động Công Đoàn

hạn và trách nhiệm của Công đoàn cũng như các biện pháp bảo đảm hoạt động Công đoàn.

Đến Hiến pháp năm 1992, quy định tại Điều 10 một lần nữa khẳng định vai trò, vị trí của Công đoàn trong thời kì đổi mới, trong đó việc "chăm lo và bảo vệ quyền lợi của cán bộ, công chức, viên chức và những người lao động khác" được đặt lên hàng đầu.

Bộ luật lao động được ban hành đã tiếp tục khẳng định vị trí pháp lý của Công đoàn trong nền kinh tế thị trường, tạo thêm những điều kiện mới để Công đoàn phát triển mạnh mẽ về tổ chức, nâng cao chất lượng hoạt động trong thời kỳ đổi mới. Tổ chức Công đoàn sẽ là chỗ dựa vững chắc của cơ quan nhà nước và đáp ứng đòi hỏi của người lao động. Đây cũng chính là nét độc đáo của lịch sử phong trào công nhân và công đoàn ở nước ta. Trước kia cũng như hiện nay, Công đoàn Việt Nam luôn xứng đáng với vai trò và nhiệm vụ của mình đối với giai cấp công nhân và viên chức Việt Nam; xứng đáng với truyền thống của dân tộc Việt Nam anh hùng.

Chương 2

CÁC QUYỀN CỦA CÔNG ĐOÀN VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN


Luật Công đoàn năm 1990 với 4 Chương 19 điều là cơ sở pháp lý để phát huy vai trò của công đoàn trong sự nghiệp đổi mới, phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chế thị trường, bảo đảm quyền dân chủ và lợi ích của người lao động trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Luật Công đoàn đã xác định rõ quyền của công đoàn trên tất cả các lĩnh vực của quan hệ lao động, đáp ứng yêu cầu của việc điều chỉnh quan hệ công đoàn hiện nay. Đó là: Quyền thành lập, gia nhập và hoạt động công đoàn; Quyền tham gia với cơ quan nhà nước và đại diện của người sử dụng lao động về các vấn đề quan hệ lao động; Quyền đại diện của công đoàn; Quyền tham gia kiểm tra, giám sát việc thi hành các quy định của pháp luật lao động; và Một số quyền của công đoàn trong việc bảo vệ người lao động. Điều này đã góp phần bảo vệ người lao động, phát triển quan hệ lao động hài hòa, ổn định.

2.1. Quyền thành lập, gia nhập và hoạt động công đoàn

Quyền tự do thành lập, gia nhập công đoàn theo quy định của pháp luật là quyền cơ bản của người lao động thuộc mọi thành phần kinh tế. Không những vậy đó còn là một trong những quyền cơ bản nhất trong các "quyền công đoàn", là nhiệm vụ trọng tâm của công đoàn Việt Nam. Đây là một trong những yếu tố thể hiện nền dân chủ và sự phát triển của một quốc gia. Hay nói theo cách khác, nền dân chủ và sự phát triển bền vững về kinh tế của một quốc gia sẽ không tồn tại nếu một bộ phận dân cư bị tước đi quyền được tự thành lập các tổ chức để bảo vệ quyền và lợi ích của mình. Do đó, tôn trọng nguyên tắc tự do công đoàn là việc làm hàng đầu để các mối quan hệ trong hoạt động nghề nghiệp được vận hành tốt và để cho nền dân chủ của một quốc gia được phát huy tích cực.

Trong luật lao động quốc tế, tôn trọng quyền tự do công đoàn được xem như là một nguyên tắc cơ bản trong lao động. Quyền này bao gồm quyền của mọi người lao động được tự do thành lập, tham gia hoặc không tham gia vào các công đoàn khác nhau. Do đó, theo các công ước quốc tế của Liên hợp quốc và Tổ chức lao động quốc tế, tất cả người lao động đều có quyền tự do thành lập, tham gia vào các công đoàn, nếu việc thành lập, tham gia đó không trái với trật tự công cộng hoặc xâm phạm an ninh, lợi ích của quốc gia sở tại.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 117 trang tài liệu này.

Tại Việt Nam do nhiều nguyên nhân nên việc phê chuẩn những công ước quốc tế liên quan đến công đoàn, đặc biệt là công ước của Tổ chức lao động quốc tế chưa được thực hiện. Do đó, người lao động tại Việt Nam, bao gồm cả lao động Việt Nam và lao động là người nước ngoài, chưa có cơ hội thực hiện quyền tham gia thành lập và gia nhập vào các công đoàn một cách đầy đủ như những quyền được ghi nhận trong các công ước quốc tế của hai tổ chức quốc tế nói trên.

Ở cấp độ quốc tế, quyền tự do công đoàn được bảo vệ chủ yếu bởi các điều ước quốc tế đa phương của Liên hợp quốc và Tổ chức lao động quốc tế.

Các quyền của công đoàn trong Luật Công đoàn năm 1990 - Thực trạng và phương hướng hoàn thiện - 5

Trong khuôn khổ của Liên hợp quốc, quyền tự do công đoàn được thể hiện và bảo đảm bởi các văn kiện quan trọng về quyền con người nói chung và quyền của người lao động nói riêng. Trước tiên không thể không kể tới Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền năm 1948. Dù không có giá trị pháp lý bắt buộc nhưng văn kiện này có thể được xem như là một học thuyết pháp lý làm cơ sở cho việc xây dựng các văn bản pháp lý quốc tế về những quyền cơ bản của con người, trong đó có quyền tự do công đoàn.

Trong nhóm các quyền liên quan đến lao động được ghi nhận tại Điều 23 của Tuyên ngôn nói trên, quyền tự do công đoàn được xem như là một quyền không thể tách rời và không thể chối cãi của người lao động. Khoản 4 Điều 23 quy định: "Tất cả mọi người đều có quyền cùng với người khác, thành lập các công đoàn hay gia nhập vào các công đoàn để bảo vệ lợi ích của mình" [41]. Để đảm bảo giá trị pháp lý quốc tế của quyền tự do công

đoàn, Liên hợp quốc đã có hàng loạt các công ước, trong đó có những điều khoản buộc các quốc gia thành viên, khi phê chuẩn công ước, phải tôn trọng và tạo điều kiện cho tất cả người lao động tham gia, thành lập công đoàn để bảo vệ lợi ích của họ trong quan hệ lao động với giới chủ. Điều 22 khoản 1 của Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 quy định: "Mọi người đều có quyền tự do lập hội với những người khác, kể cả quyền lập và gia nhập các công đoàn để bảo vệ lợi ích của mình". Cùng thời điểm này, Điều 8 khoản 1 Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa năm 1962 cũng thừa nhận quyền tự do công đoàn của tất cả mọi người. Theo đó, "các quốc gia thành viên của Công ước cam kết đảm bảo quyền của mọi người được thành lập và gia nhập công đoàn mà mình lựa chọn, để thúc đẩy và bảo vệ các lợi ích kinh tế và xã hội của mình, với điều kiện là chỉ phải tuân theo quy chế của tổ chức công đoàn đó" [41]. Như vậy, cả hai công ước nêu trên đều cho phép việc thực hiện quyền tự do công đoàn một cách không hạn chế, ngoại trừ những trường hợp pháp luật của quốc gia thành viên quy định hạn chế đối với những đối tượng nhất định, nhằm mục đích đảm bảo cho một xã hội dân chủ, vì lợi ích, an ninh quốc gia và trật tự công cộng hoặc vì mục tiêu bảo vệ các quyền và tự do của những người khác.

Ngoài hai văn kiện quốc tế có giá trị pháp lý nêu trên, năm 1990, Liên hợp quốc cũng cho ra đời thêm một công ước trong lĩnh vực lao động nhằm bảo vệ quyền lợi cho người lao động di trú. Trong công ước này, quyền công đoàn của người lao động di trú lao động trên lãnh thổ của quốc gia thành viên cũng được đảm bảo giống như người lao động trong nước. Với quy định tại Điều 7 về "bảo vệ không phân biệt đối xử" giữa những người lao động có quốc tịch khác nhau, Công ước năm 1990 của Liên hợp quốc về bảo vệ người lao động di trú và thành viên gia đình của họ đã buộc các quốc gia thành viên phải đảm bảo quyền tự do công đoàn của người lao động nước ngoài như quyền của người lao động trong nước. Nói cách khác, công ước này cũng đã gián tiếp thừa nhận quyền tự do công đoàn của tất cả mọi người lao động trên lãnh thổ của quốc gia thành viên. Điều 26 Công ước nêu trên quy định:

"Các quốc gia thành viên thừa nhận quyền của người lao động di trú tham gia vào những cuộc họp và các hoạt động của các công đoàn và các đoàn thể hợp pháp khác, nhằm để bảo vệ quyền và lợi ích kinh tế, văn hóa, xã hội và các quyền khác, theo quy định của các tổ chức nói trên" [41]. Quyền này được cụ thể rõ ràng tại Điều 40 của cùng Công ước: "Người lao động di trú có quyền, cùng với những người khác, thành lập các hội và các công đoàn tại đất nước họ đang lao động nhằm thực hiện và bảo vệ các lợi ích kinh tế, văn hóa, xã hội và các lợi ích khác của họ" [41].

Như vậy, theo quy định của các văn kiện quốc tế của Liên hợp quốc, vì mục đích đảm bảo cho lợi ích kinh tế, văn hóa, xã hội của mình, tất cả người lao động kể cả người lao động nước ngoài đều có quyền thành lập và tham gia các công đoàn theo sự lựa chọn của mình.

Ngoài Liên hợp quốc, quyền tự do công đoàn của người lao động cũng luôn là tâm điểm được bảo vệ bởi Tổ chức lao động quốc tế. Điều 2 Công ước số 87 về quyền tự do công đoàn và bảo vệ quyền công đoàn của Tổ chức lao động quốc tế năm 1948 quy định: "Tất cả người lao động và người sử dụng lao động đều có quyền thành lập và gia nhập các tổ chức theo sự lựa chọn của họ với điều kiện tuân thủ Điều lệ của các tổ chức đó" [41]. Như vậy, quyền tự do công đoàn của người lao động, theo Tổ chức lao động quốc tế, cũng bao gồm quyền được thành lập và gia nhập công đoàn theo sự lựa chọn của họ. Có nghĩa là, những người lao động có thể thành lập nhiều công đoàn khác nhau trong một cơ sở lao động. Trên cơ sở đó, những người lao động khác có quyền tự do lựa chọn tham gia vào công đoàn này, hay công đoàn khác để bảo vệ lợi ích của mình một cách tốt nhất.

Ngoài các công ước có giá trị pháp lý bắt buộc đối với các quốc gia thành viên phê chuẩn, Tổ chức lao động quốc tế còn có những văn kiện mang tính tuyên bố, khuyến nghị tất cả các quốc gia thành viên của Tổ chức lao động quốc tế bảo vệ quyền tự do công đoàn không hạn chế của người lao

động như Tuyên bố năm 1998 về các nguyên tắc và quyền cơ bản trong lao động xác định nghĩa vụ các nước thành viên của Tổ chức lao động quốc tế, kể cả các nước không phê chuẩn những công ước về quyền tự do công đoàn liên quan phải tôn trọng quyền tự do công đoàn của những người lao động. Như vậy, dù không tham gia phê chuẩn những công ước của Tổ chức quốc tế về quyền tự do công đoàn, nhưng ít nhất, các quốc gia thành viên của Tổ chức này phải đảm bảo cho tất cả mọi người lao động phải có quyền tham gia, thành lập các công đoàn.

Điều 1 Luật Công đoàn Việt Nam quy định:

Những người lao động Việt Nam làm việc trong các đơn vị sản xuất kinh doanh thuộc các thành phần kinh tế, xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, đơn vị sự nghiệp, cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội đều có quyền thành lập và gia nhập công đoàn trong khuôn khổ Điều lệ Công đoàn Việt Nam [28].

Việt Nam cho đến nay vẫn chưa phải là thành viên của bất kỳ Công ước nào của Tổ chức lao động quốc tế về quyền tự do công đoàn nêu trên. Do đó, về mặt pháp lý, chúng ta không buộc phải tuân theo quy định của các Công ước này. Tuy nhiên, trong khuôn khổ Liên hợp quốc, Việt Nam đã tham gia hai Công ước năm 1966 về các quyền dân sự, chính trị và các quyền về văn hóa, xã hội, trong đó có quyền tham gia, thành lập các công đoàn của tất cả mọi người. Tuy vậy, so với quyền tự do công đoàn trong hai Công ước năm 1966 nêu trên, Luật Công đoàn Việt Nam vẫn chưa đảm bảo hết quyền tham gia, thành lập và gia nhập công đoàn của người lao động bởi một số hạn chế có tính đặc thù.

2.2. Quyền tham gia của công đoàn với cơ quan nhà nước và đại diện của người sử dụng lao động về các vấn đề quan hệ lao động

Đây chính là quyền hạn của hệ thống công đoàn các cấp. Theo đó, Công đoàn thay mặt cho người lao động tham gia xây dựng và hoàn thiện cơ

chế, chính sách, pháp luật. Công đoàn phối hợp với các cơ quan nhà nước xây dựng hệ thống chính sách, pháp luật của Việt Nam đồng bộ. Đồng thời, công đoàn cũng tích cực tham gia thúc đẩy việc hoàn thiện "cơ chế ba bên" trong quan hệ lao động. Cơ chế ba bên là một trong những hình thức biểu hiện mối quan hệ giữa Nhà nước - giới chủ - người lao động (đại diện là công đoàn) nhằm thay đổi cách thức quan hệ lao động, làm hài hòa quan hệ chủ - thợ tương thích với cơ chế quản lý nhà nước.

Trong cơ chế này, Chính phủ có trách nhiệm đặt ra luật pháp, quy chế. Công đoàn là tổ chức chính trị - xã hội đại diện cho người lao động, có kiến nghị, tham gia quá trình lập pháp và đặt ra giải pháp tạo căn cứ pháp luật ổn định cho công đoàn trong quá trình bảo vệ quyền và lợi ích của người lao động.

Để giải quyết đúng đắn mối quan hệ ba bên, công đoàn cùng Nhà nước và cơ quan hữu quan tiến hành thương lượng thông qua phương thức hội nghị liên tịch để tham gia với nhà nước, từng bước xây dựng cơ chế ba bên ở tầm cao. Hiện nay cơ chế ba bên trong lĩnh vực quan hệ lao động đang hình thành ngày một rõ nét. Công đoàn chủ động trong việc xây dựng cơ chế ba bên để giải quyết đúng quan hệ lao động giữa người sử dụng lao động và người lao động theo pháp luật của Nhà nước. Theo đó, việc thực hiện quyền tham gia của tổ chức công đoàn phụ thuộc vào sự phân cấp của tổ chức này. Cụ thể như sau:

Thứ nhất, quyền tham gia của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam bao gồm những nội dung cụ thể như sau:

- Quyền sáng kiến pháp luật: Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam có quyền trình dự án Luật, dự án Pháp lệnh ra trước Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội;

- Quyền tham gia với cơ quan nhà nước xây dựng pháp luật, chính sách, chế độ liên quan đến quyền, lợi ích của người lao động;

- Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam có quyền tham dự phiên họp của Chính phủ khi bàn đến những vấn đề liên quan trực tiếp tới quyền, nghĩa vụ, lợi ích của người lao động;

- Quyền tham gia các đoàn kiểm tra, giám sát thực hiện pháp luật liên quan đến quyền và lợi ích người lao động do Chính phủ, Bộ, ngành tổ chức;

- Quyền kiến nghị với cơ quan nhà nước về những vấn đề phát sinh trong việc thực hiện pháp luật, chế độ, chính sách với người lao động;

- Quyền tham gia với cơ quan nhà nước giải quyết khiếu nại, tố cáo của người lao động;

- Quyền tham gia ý kiến khi Chính phủ quyết định và công bố mức lương tối thiểu chung, mức lương tối thiểu vùng, mức lương tối thiểu ngành, mức lương tối thiểu trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cho từng thời kì (Điều 56, Điều 132 Bộ luật Lao động);

- Quyền tham gia ý kiến khi Chính phủ quy định nguyên tắc xây dựng thang lương, bảng lương, định mức lao động; quy định thang lương, bảng lương đối với doanh nghiệp nhà nước;

- Quyền tham gia ý kiến khi Chính phủ quy định các trường hợp đặc biệt được làm thêm không quá 300 giờ trong một năm;

- Quyền tham gia với Chính phủ trong việc xây dựng chương trình quốc gia về bảo hộ lao động, an toàn lao động, vệ sinh lao động, xây dựng chương trình nghiên cứu khoa học và xây dựng pháp luật về bảo hộ lao động, an toàn lao động, vệ sinh lao động;

- Quyền tham gia ý kiến về danh mục các loại bệnh nghề nghiệp trước khi Chính phủ hoặc cơ quan nhà nước ban hành;

Thứ hai, quyền tham gia của công đoàn cấp trên cơ sở bao gồm những nội dung cơ bản sau:

- Quyền tham gia với cơ quan nhà nước xây dựng pháp luật, chính sách, chế độ liên quan đến quyền, lợi ích của người lao động;

Xem tất cả 117 trang.

Ngày đăng: 03/11/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí