Quy Định Của Pháp Luật Tố Tụng Hình Sự Việt Nam Về Thực Hành Quyền Công Tố Trong Giai Đoạn Xét Xử Sơ Thẩm


điều tra bổ sung về tội danh nặng hơn cáo trạng truy tố; còn nếu xét thấy việc buộc tội là không có căn cứ thì Kiểm sát viên có quyền rút quyết định truy tố.

- Thực hiện việc luận tội;

Luận tội là một trong những nhiệm vụ, quyền hạn của VSKND khi THQCT trong giai đoạn xét xử sơ thẩm do KSV trực tiếp thực hiện ngay sau khi kết thúc phần xét hỏi, mở đầu phần tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Vậy, “Luận tội” là gì, theo tác giả “Luận” có nghĩa “bàn luận”, “bình luận” trao đổi, phân tích và nhận định về tình hình, vấn đề nào đó, dựa vào lý lẽ, ý nghĩa mà suy ra. Còn “tội” trong quy định “luận tội” của BLTTHS có nghĩa là tội trạng của bị cáo, người phạm tội. Do đó, “Luận tội” là “bàn luận về hành vi phạm tội của bị cáo tại phiên tòa”, để từ đó KSV căn cứ đề nghị mức án cho phù hợp, giúp HĐXX có căn cứ ra bản án, quyết định đúng quy định của pháp luật.

Luận tội luôn là một vấn đề được quan tâm không chỉ đối với cán bộ, KSV Ngành Kiểm sát mà còn đối với cả các cơ quan tư pháp, thậm trí là với cả các cơ quan truyền thông và dư luận xã hội. Bởi nội dung luận tội luôn thể hiện xúc tích nhất những đánh giá, nhận định, quan điểm xử lý đối với vụ án của VKS. Nếu luận tội có chất lượng không những thể hiện được trình độ nghiệp vụ của cá nhân KSV mà còn thể hiện được vai trò, vị thế của Ngành Kiểm sát trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm. Vì vậy, để có được một luận tội có chất lượng thì KSV cần phải có kỹ năng để xây dựng một bản Dự thảo luận tội thật toàn diện. Xây dựng Dự thảo luận tội là một trong những hoạt động thể hiện thao tác nghiệp vụ mà KSV phải làm để chuẩn bị cho việc THQCT tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Dự thảo luận tội được KSV thực hiện trong giai đoạn truy tố và có thể được chỉnh sửa, bổ sung tùy theo diễn biến tại phiên tòa, đến trước khi thực hiện việc luận tội tại phiên tòa.

Tại phiên tòa, Luận tội phải phân tích đánh giá các tài liệu, vật chứng được thu thập, xác minh trong quá trình điều tra vụ án đúng trình tự, thủ tục tố tụng, khách quan và liên quan đến vụ án để khẳng định các tài liệu, vật chứng đó là chứng cứ và có giá trị chứng minh tội phạm, người phạm tội. Việc phân tích, đánh giá các


chứng cứ phải toàn diện, đầy đủ để xác định bị cáo có tội hay không có tội, phân tích, đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự, nguyên nhân, điều kiện dẫn đến hành vi phạm tội và các yếu tố khác có ý nghĩa cho việc giải quyết đúng đắn vụ án; có thể nói luận tội là biện pháp bảo vệ cáo trạng VKS đã truy tố nên KSV phải phân tích, đánh giá chứng cứ, viện dẫn các chứng cứ đã được kiểm tra công khai tại phiên tòa, đảm bảo sự buộc tội của VKS (bản cáo trạng) là có căn cứ.

Luận tội của VKS là cơ sở tranh luận giữa VKS với bị cáo, người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự và những người tham gia tố tụng khác, đồng thời là căn cứ để các bên đưa ra ý kiến, quan điểm của mình về toàn bộ nội dung vụ án. Đây là giai đoạn đấu lý quan trọng nhất, giai đoạn làm việc cực lực của Kiểm sát viên tại phiên tòa phải nên kiểm sát viên phải tập trung, nhạy bén. Trên cơ sở luận tội, HĐXX sẽ xem xét, quyết định để đưa ra phán quyết đối với toàn bộ vụ án và người phạm tội.

- Tranh luận với bị cáo, bị hại, nhân chứng, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 99 trang tài liệu này.

Đối đáp, tranh luận là một trong những nhiệm vụ quan trọng của KSV khi THQCT tại phiên tòa sơ thẩm hình sự. Để thực hiện tốt việc đối đáp, tranh luận tại phiên tòa, KSV phải nhiên cứu kỹ hồ sơ vụ án, tìm ra những vấn đề còn mâu thuẫn, những chứng cứ còn yếu, đặc biệt phải xem xét đến các chứng cứ buộc tội, gỡ tội một cách đầy đủ, đảm bảo tính khách quan. Bên cạnh đó, KSV còn cần phải xây dựng kế hoạch xét hỏi gắn liền với kế hoạch tranh luận, dự kiến các tình huống có thể xảy ra để chuẩn bị các văn bản pháp luật, văn bản hướng dẫn thi hành pháp luật còn hiệu lực phục vụ tốt cho dự thảo nội dung tranh luận.

Tại phiên tòa, KSV phải tích cực tham gia xét hỏi để đấu tranh làm rò những chứng cứ, tình tiết chưa rò nhưng cũng phải tập trung cao độ để theo dòi, ghi chép đầy đủ các câu hỏi của Hội đồng xét xử, người bào chữa, các câu trả lời của bị cáo, bị hại và những người tham gia tố tụng khác để phán đoán hướng bào chữa; từ

Thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án xâm phạm sở hữu từ thực tiễn huyện Chơn Thành, tỉnh Bình Phước - 5


đó bổ sung vào dự thảo những ý kiến đối đáp, tranh luận. Nội dung đối đáp, tranh luận của KSV tại phiên tòa phụ thuộc vào nội dung lời bào chữa của người bào chữa, của bị cáo, bị hại… Khi đối đáp, tranh luận, KSV phải vận dụng, tổng hợp những hiểu biết, kiến thức của mình về Bộ luật hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự và các văn bản pháp luật liên quan như Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao, Thông tư, Nghị định của Chính phủ, Liên ngành Trung ương … để xác định chính xác tội danh, điều, khoản áp dụng hình phạt, trách nhiệm dân sự,… Trên cơ sở các chứng cứ, tài liệu, các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự đã được xét hỏi công khai tại phiên tòa, KSV phải đối đáp, tranh luận với người bào chữa, bị cáo, bị hại những người tham gia tố tụng khác nhằm chứng minh luận điểm của VKS là có căn cứ, đúng quy định để bác bỏ những luận điểm không đúng, không đầy đủ, không trung thực của bị cáo, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác ...

- Kháng nghị phúc thẩm:

Sau khi việc tranh luận kết thúc, bị cáo nói lời sau cùng Hội đồng xét xử sẽ tiến hành nghị án để tuyên bản án sơ thẩm đối với các bị cáo. Tuy nhiên, việc xét xử của Hội đồng xét xử không phải lúc nào cũng đúng, khó tránh khỏi những thiếu sót, sai lầm không khắc phục được, gây nên tình trạng oan, sai, bỏ lọt tội phạm. Để tránh những thiếu sót, sai lầm ấy thì cần thiết phải đảm bảo quyền “chống án” của “bên buộc tội” và “bên gỡ tội” nên việc ra đời chế định kháng nghị phúc thẩm là cần thiết. Vì vậy, Điều 18 Luật tổ chức VKSND năm 2014, điểm c khoản 1 Điều 266 BLTTHS năm 2015 quy định khi THQCT trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự, VKSND có nhiệm vụ, quyền hạn “kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án trong trường hợp phát hiện oan, sai, bỏ lọt tội phạm, người phạm tội”.


Theo tác giả Trần Thị Minh Ngọc: Kháng nghị phúc thẩm hình sự là quyền năng pháp lý đặc biệt mà Nhà nước chỉ giao cho Viện kiểm sát các cấp thực hiện thông qua một văn bản pháp lý nêu rò lý do của việc kháng nghị và yêu cầu Toà án cấp trên xét xử lại vụ án theo trình tự phúc thẩm. Thông qua việc kháng nghị phúc


thẩm hình sự, Viện kiểm sát bảo vệ quan điểm truy tố, đồng thời nhằm khắc phục các vi phạm pháp luật nghiêm trọng đối với các bản án, quyết định sơ thẩm của Toà án chưa có hiệu lực pháp luật” [28, tr24].

Khi thực hiện chức năng THQCT trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự, VKS kháng nghị các bản án, quyết định của Tòa án trong trường hợp phát hiện oan, sai, bỏ lọt tội phạm, người phạm tội.

Theo tác giả Trần Thị Quỳnh Anh: khái niệm “oan” có thể được hiểu là “Trường hợp không có sự việc phạm tội, hành vi không cấu thành tội phạm, do bị vu cáo, dựng vụ án giả hoặc hành vi do người khác thực hiện, nhưng một người vẫn bị điều tra, truy tố, xét xử và kết tội”. Khái niệm về “sai” có thể được hiểu là trường hợp các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng giải quyết vụ án hình sự một cách không khách quan, không đầy đủ, trái với những quy định của pháp luật. Việc để xảy ra sai trong xét xử vụ án hình sự với các biểu hiện như việc áp dụng pháp luật hình thức, pháp luật nội dung không đúng, không đầy đủ, không khách quan, việc áp dụng các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với một người phạm tội chưa chính xác [2, tr25].

Bỏ lọt tội phạm, người phạm tội: là trường hợp VKS truy tố người có hành vi phạm tội nhưng vì lý do nào đó, Tòa án lại cho rằng không có sự việc phạm tội hoặc người bị truy tố không phạm tội (bỏ lọt) và không bị một chế tài nào trừng phạt mà vẫn “nhởn nhơ” ngoài vòng pháp luật.

Toàn bộ nội dung THQCT trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án xâm phạm sở hữu chính là việc Kiểm sát viên, đại diện cho VKSND thực hiện tổng hợp các quyền năng pháp lý theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự để thực hiện buộc tội người phạm tội xâm phạm sở hữu tại phiên tòa ở cấp xét xử thứ nhất.


Tiểu kết Chương 1

Quá trình phát triển và hoàn thiện chế định quyền công tố gắn liền với bản chất của Nhà nước và xuất hiện cùng với sự ra đời của Nhà nước và pháp luật, gắn với điều kiện tự nhiên, kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, con người của mỗi quốc gia, bộ máy nhà nước được thiết lập khác nhau. Do đó, quyền công tố, THQCT cũng có sự khác biệt nhất định.

Quyền công tố là quyền nhân danh Nhà nước thực hiện việc truy cứu TNHS đối với người phạm tội, quyền này được Nhà nước giao cho cơ quan VKS để phát hiện tội phạm và truy cứu TNHS đối với người phạm tội. THQCT là chức năng của VKSND trong tố tụng hình sự để thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với người phạm tội, được thực hiện ngay từ khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự. Trên cơ sở tài liệu, chứng cứ được thu thập, VKS xác định tội phạm và người phạm tội, quyết định truy tố người phạm tội ra trước Toà án và bảo vệ quyết định truy tố tội đó trước phiên toà.

Giai đoạn xét xử sơ thẩm là giai đoạn trung tâm của quá trình tố tụng, có ý nghĩa rất quan trọng, quyết định thành quả các hoạt động tố tụng trước đó nên khi THQCT này, VKS phải sử dụng tổng hợp các quyền năng pháp lý thuộc nội dung quyền công tố để buộc tội người phạm tội tại phiên tòa ở cấp xét xử thứ nhất. Quá trình này, được thực hiện từ khi VKS chuyển bản cáo trạng hoặc quyết định truy tố (theo thủ tục rút gọn) cùng hồ sơ vụ án hình sự sang tòa và kết thúc khi Tòa án ra quyết định, bản án hoặc quyết định đình chỉ có hiệu lực pháp luật, không bị kháng cáo kháng nghị. Để thực hiện tốt công tác THQCT trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án xâm phạm sở hữu cần phải xác định rò: Tội xâm phạm sở hữu là hành vi nguy hiểm cho xã hội, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho quyền sở hữu được nhà nước thừa nhận. Nhận dạng đặc điểm của các tội xâm phạm sở hữu thông qua việc nghiên cứu cấu thành tội phạm của nhóm tội này, điểm đặc trưng riêng biệt của tội này với tội khác để nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố.


Chương 2

QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN XÂM PHẠM SỞ HỮU VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH

TẠI HUYỆN CHƠN THÀNH, TỈNH BÌNH PHƯỚC


2.1. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm

Thực hiện đường lối đổi mới của đất nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng, công cuộc cải cách về xã hội, kinh tế, chính trị đã đạt đến những bước phát triển quan trọng, vừa là cơ hội - tiền đề, vừa là thách thức lớn đòi hỏi phải có những điều chỉnh mang tính đột phá. So với kinh tế, xã hội thì xây dựng nhà nước pháp quyền - chính trị có phần chậm hơn, trong đó cách tư pháp chậm hơn so với cải cách hành chính. Để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm, tăng cường khả năng chống oan sai, bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, bảo đảm các quyền tự do dân chủ của công dân đã được Hiến pháp và pháp luật quy định. Việc cải cách tư pháp trong đó có tố tụng hình sự phải bao gồm cả thẩm quyền, nhiệm vụ của các chủ thể tố tụng, trình tự, thủ tục, thời hạn cũng như mối quan hệ giữa các cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự.

Thực hiện yêu cầu cải cách tư pháp, hoàn thiện thủ tục tố tụng hình sự nói chung, tranh tụng trong xét xử nói riêng đã được đề ra trong nhiều Nghị quyết của Đảng về cải cách tư pháp, trong đó Nghị quyết số 08-NQ/TW, ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới đặt ra yêu cầu phán quyết của Tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của các chủ thể tham gia tố tụng tại phiên tòa để đưa ra bản án, quyết định đúng pháp luật, có sức thuyết phục. Việc đổi mới tổ chức phiên tòa xét xử, nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa, đảm bảo tính công khai, dân chủ, nghiêm minh theo tinh thần Nghị quyết số 49-NQ/TW, ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã xác định rò hơn vị trí, quyền hạn và trách nhiệm của các


chủ thể tham gia tố tụng. Đặc biệt, khoản 5 Điều 103 Hiến pháp năm 2013 xác định nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được đảm bảo, đáp ứng ngày càng cao trong công cuộc đổi mới nguyên tắc của tố tụng hình sự. Trên cơ sở thi hành Luật tổ chức VKSND và kết quả tổng kết thực tiễn thi hành luật, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đã bổ sung “Nguyên tắc trong xét xử được bảo đảm” nhằm đảm bảo cho những người tham gia tố tụng thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của mình, bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự, nâng cao trách nhiệm của Kiểm sát viên khi THQCT tại phiên tòa nói chung và phiên toàn sơ thẩm nói riêng.

Kế thừa các quy định của BLTTHS năm 2003, BLTTHS năm 2015 có những sửa đổi, bổ sung các quy định về xét xử sơ thẩm và xét xử phúc thẩm, đã nhập Phần thứ ba (xét xử sơ thẩm) và Phần thứ tư (xét xử phúc thẩm) thành Phần thứ tư (xét xử vụ án hình sự), gồm 03 chương: Chương XX. Những quy định chung; Chương XXI. Xét xử sơ thẩm; Chương XXII. Xét xử phúc thẩm. Qua đó phản ánh chính xác hai cấp xét xử, tạo cơ sở để loại bỏ những quy định trùng lắp, không nhất thiết phải lặp đi, lặp lại ở cả sơ thẩm và phúc thẩm, nhằm đảm bảo tính khoa học trong việc phân chia các giai đoạn tố tụng, phù hợp với lý luận và thực tiễn áp dụng.

Theo khoản 5 Điều 103 Hiến pháp năm 2013: “Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm” [37], cụ thể hóa quy định này của Hiến pháp, BLTTHS năm 2015 đã nhập “thủ tục xét hỏi tại phiên tòa” tại Chương XX với “tranh luận tại phiên tòa” tại Chương XXI của BLTTHS năm 2003 thành “Thủ tục tranh tụng tại phiên tòa” (Mục V Chương XXI Xét xử sơ thẩm của BLTTHS năm 2015) để bảo đảm việc tranh tụng không chỉ thể hiện ở phần tranh luận mà còn thể hiện ngay trong phần xét hỏi. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử lập pháp, tố tụng hình sự Việt Nam đã chính thức ghi nhận về nhiệm vụ, quyền hạn của VKS khi THQCT trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại BLTTHS, cụ thể là tại khoản 1 Điều 266 BLTTHS năm 2015. Có thể nói, đây là bước tiến mới, quan trọng trong công tác lập pháp của nước ta, góp phần khẳng định vai trò của chức năng công tố và vị trí của ngành kiểm sát.


Nội dung THQCT trong giai đoạn xét xử sơ thẩm theo quy định của BLTTHS năm 2015 có nhiều sửa đổi, bổ sung nhằm đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, hoàn thiện thủ tục tố tụng hình sự nói chung, tranh luận trong xét xử nói riêng, bảo đảm nguyên tắc tranh tụng được thực hiện, cụ thể:

- Trong giai đoạn xét xử sơ thẩm, nội dung THQCT có nhiều sửa đổi, bổ sung nhằm bảo đảm nguyên tắc tranh tụng được thực hiện, quy định rò trách nhiệm của Tòa án đối với việc giải quyết yêu cầu, đề nghị trước khi mở phiên tòa (Điều 279), theo đó Tòa án có trách nhiệm giải quyết yêu cầu của Kiểm sát viên, người tham gia tố tụng về việc cung cấp, bổ sung chứng cứ; triệu tập người làm chứng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng khác đến phiên tòa, nhằm đảm bảo các chứng cứ, tài liệu, đồ vật được đưa đến phiên tòa để xét xử phải đầy đủ và hợp pháp, phiên tòa có đầy đủ các chủ thể tham gia tố tụng.

- BLTTHS năm 2015 bổ sung quy định: “Trường hợp Viện kiểm sát phát hiện có căn cứ trả hồ sơ để điều tra bổ sung thì Viện kiểm sát có văn bản đề nghị Tòa án trả hồ sơ” (khoản 2 Điều 280); sửa đổi quy định về trả hồ sơ để điều tra bổ sung: “Thẩm phán chủ tọa phiên tòa chỉ được trả hồ sơ để điều tra bổ sung một lần và Hội đồng xét xử chỉ được trả hồ sơ bổ sung một lần”, “Có căn cứ khởi tố bị can về một hay nhiều tội phạm khác”, “Có người đồng phạm hoặc người phạm tội khác liên quan đến vụ án nhưng chưa được khởi tố vụ án, khởi tố bị can”. Theo đó, trường hợp VKS không bổ sung được những vấn đề mà Tòa yêu cầu và vẫn giữ nguyên quyết định truy tố thì Tòa án tiến hành xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ để giải quyết vụ án hoặc tiến hành xét xử vụ án; trường hợp kết quả điều tra bổ sung dẫn đến phải thay đổi quyết định truy tố thì VKS ban hành bản cáo trạng mới thay thế bản cáo trạng trước đó. Với những sửa đổi, bổ sung của BLTTHS đã đáp ứng sự linh hoạt trong thực tiễn áp dụng pháp luật và bảo đảm yêu cầu tranh tụng trong tố tụng hình sự.

- Đồng thời, BLTTHS năm 2015 đã bổ sung điều luật quy định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn của VKS, khi THQCT trong giai đoạn xét xử sơ thẩm, VKS có nhiệm vụ, quyền hạn ( khoản 1 Điều 266):

Xem tất cả 99 trang.

Ngày đăng: 24/06/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí