Sự Hỗ Trợ Của Các Nhà Quản Lý Đến Ktnb


ích và đề xuất các khuyến nghị cải tiến hoạt động (IIA, 2011). Theo định nghĩa của kiểm toán nội bộ (IIA, 2011), KTNB được kỳ vọng sẽ tăng thêm giá trị cho các tổ chức bằng cách quản lý hiệu quả hoạt động KTNB; xem xét các hoạt động và các chương trình để xác định mức độ mà kết quả là phù hợp với mục tiêu của tổ chức; xây dựng kế hoạch, báo cáo và các chương trình kiểm toán để đạt được mục tiêu kiểm toán; và xác định khung thời gian thích hợp và phù hợp để đạt được mục tiêu.

Cùng tiếp cận theo hướng chất lượng này, khi đề cập đến các hoạt động của kiểm toán nội bộ, Firehiwet Weldu Kahsay (2017) quan tâm đến việc KTNB có các quy trình theo dõi để đảm bảo các đơn vị được kiểm toán thực hiện đúng các hoạt động khắc phục theo kế hoạch hay không, KTNB có chuẩn bị kế hoạch và chương trình hiệu quả để tiến hành hoạt động kiểm toán cho từng bộ phận riêng lẻ hay không, và KTNB thực hiện các hoạt động kiểm toán phù hợp với các chuẩn mực quốc tế được công nhận hay không (VD: IIA).

1.2.2.4. Sự hỗ trợ của các nhà quản lý đến KTNB

Sự hỗ trợ của các nhà quản lý được coi là nhân tố quan trọng nhất ảnh hưởng đến tính hiệu lực của kiểm toán nội bộ trong mô hình của Abdulaziz Alzeban (2014). Theo tác giả, sự hỗ trợ của nhà quản lý được xem xét thông qua việc hỗ trợ kiểm toán nội bộ trong việc thực hiện nhiệm vụ và trách nhiệm của mình, sự tham gia vào kế hoạch kiểm toán, cung cấp các tài nguyên cần thiết (nhân lực, ngân sách) cho kiểm toán, cũng như việc báo cáo công việc của nhóm kiểm toán nội bộ tới ban quản lý và phản hồi từ ban quản lý tới các báo cáo này. Không có sự hỗ trợ từ quản lý, kiểm toán nội bộ không đủ độc lập và bị giới hạn về phạm vi công việc cũng như về nguồn lực. Kết quả của nghiên cứu này cũng tương tự kết quả của Al-Twaijry và cộng sự (2003), các tác giả nhận thấy rằng sự tương tác giữa nhân viên kiểm toán nội bộ và quản lý cấp cao là rất quan trọng để xác định tính độc lập và tính khách quan của kiểm toán viên nội bộ. Do đó, có thể lập luận rằng sự hỗ trợ từ ban lãnh đạo cấp cao là nền tảng của IAE. Các nhà quản lý cấp cao có vai trò rất quan trọng trong việc cung cấp nguồn lực, nâng cao năng lực và trình độ cũng như tính độc lập của kiểm toán nội bộ.

Kết quả phân tích hồi quy của Aaron Cohen và Gabriel Sayag (2010) cũng cho ra kết quả tương tự, phản ánh sự tác động mạnh mẽ theo hướng thuận chiều của sự hỗ trợ từ phía quản lý cấp cao. Sự hỗ trợ từ phía quản lý cấp cao được nhận thức là biến duy nhất có liên quan mạnh và nhất quán nhất đến ba khía cạnh hiệu lực kiểm toán, bao gồm chất lượng, đánh giá của đối tượng được kiểm toán và sự đóng góp của kiểm toán nội bộ.


Ngoài sự hỗ trợ trong công việc, nguồn lực và báo cáo, Aaron Cohen & Gabriel Sayag (2010), Hella Dellai và Mohamed Ali Brahim Omri (2016) và Firehiwet Weldu Kahsay (2017) cho rằng các nhà quản lý cần khuyến khích đào tạo và phát triển đội ngũ KTNB. Đồng thời các tác giả cũng nhấn mạnh các nhà quản lý cấp cao cần có nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của kiểm toán nội bộ.

Ngược lại với những nhận định trên, Tackie et al. (2016) và Mustika (2015) nhận thấy sự hỗ trợ của ban lãnh đạo không ảnh hưởng đến hiệu lực kiểm toán nội bộ. Điều này đòi hỏi phải nghiên cứu thêm để mở rộng kiến thức về mối quan hệ và quan hệ nhân quả của việc hỗ trợ quản lý và hiệu quả kiểm toán nội bộ.

Bên cạnh nghiên cứu của các tác giả trên, IIA (2010) xem xét sự hỗ trợ của các nhà quản lý theo mối quan hệ rộng hơn – 2 chiều, không chỉ là chiều hỗ trợ từ phía quản lý xuống kiểm toán nội bộ mà còn theo chiều ngược lại, khảo sát sự hài lòng của nhà quản lý đối với kiểm toán nội bộ, tính toán số khuyến nghị trung bình trên một kiểm toán viên, tỷ lệ các khuyến nghị được thực hiện đúng thời hạn, khả năng tiết kiệm chi phí của KTNB và việc các nhà quản lý có thay đổi các quy trình theo đề xuất của KTNB hay không.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 208 trang tài liệu này.

1.2.2.5. Sự nghiệp và khả năng thăng tiến

Theo lập luận của Goodwin (2001), xét trên phạm vi quốc tế, việc nhân viên theo đuổi tập trung vào con đường sự nghiệp kiểm toán nội bộ còn chưa phổ biến, với nhiều tổ chức sử dụng chức năng này như một nền tảng đào tạo cho bộ phận quản lý trong tương lai. Quá trình này được thiết kế để giúp tổ chức đào tạo các nhà quản lý cấp cao một cách toàn diện bằng cách luân chuyển qua các phòng ban khác nhau trong tổ chức. Do đó, nhân viên đó có cơ hội để tìm hiểu cách thức hoạt động và quản lý tại các phòng ban. Hơn nữa, các nhà quản lý có kinh nghiệm trong kiểm toán nội bộ sẽ hiểu rõ hơn về tầm quan trọng của kiểm toán nội bộ. Khả năng sử dụng vai trò kiểm toán nội bộ như một bước đệm cho các vị trí quản lý được xem là một trong những lợi thế của việc có chức năng kiểm toán nội bộ ngay trong tổ chức, thay vì thuê ngoài bên thứ ba thực hiện các hoạt động kiểm toán nội bộ này. Mức độ thăng tiến của kiểm toán nội bộ trong sự nghiệp quản lý có thể ảnh hưởng đến tính hiệu lực của kiểm toán nội bộ. Điều này có lẽ trở nên đúng hơn so với trước đây, theo xu hướng được mô tả bởi Goodwin (2001). Hơn 20 năm trước, Albrecht và cộng sự (1988) chỉ ra hầu hết những người tham gia khảo sát đều nhận thấy kiểm toán nội bộ như một cánh cửa để bước vào vị trí quản lý hoặc thăng tiến sâu hơn trong sự nghiệp KTNB.

Các nhân tố ảnh hưởng đến tính hiệu lực của kiểm toán nội bộ tại các ngân hàng thương mại Việt Nam - 4


Nghiên cứu của Gouldner’s (1957, 1958) cũng xem xét vấn đề này và nhận thấy: hướng đến vị trí quản lý là mục tiêu của những người có cách tiếp cận hẹp hơn, coi trọng lợi ích của tổ chức, trong khi người hướng đến sự nghiệp kiểm toán chuyên sâu là người có cách tiếp cận quốc tế, nhấn mạnh lợi ích của nghề nghiệp. Như đã nói, các kiểm toán viên chuyên nghiệp ngày càng trở nên ít phổ biến hơn so với các nhân sự tổng hợp quan tâm đến con đường trở thành quản lý (Goodwin, 2001). Có thể lập luận rằng trong những điều kiện này, các kiểm toán viên nội bộ hoạt động trong các tổ chức có nhiều cơ hội nghề nghiệp hơn sẽ đầu tư nhiều hơn vào công việc để tăng cơ hội thăng tiến của họ. Những người có ít cơ hội thăng tiến trong tổ chức sẽ đầu tư ít nỗ lực hơn vào công việc, dẫn đến mức hiệu suất thấp hơn.

Tiếp nối các nghiên cứu trên, nghiên cứu của Cohen và Sayag (2010) đưa ra và kiểm định giả thuyết: Tổ chức có nhiều cơ hội nghề nghiệp hơn cho các kiểm toán viên nội bộ sẽ ảnh hưởng tích cực, giúp tăng tính hiệu lực của kiểm toán nội bộ. Tác giả xem xét vấn đề sự nghiệp và thăng tiến của kiểm toán nội bộ qua 3 khía cạnh: kiểm toán nội bộ có phải là một bước trong quy trình đào tạo nhân viên không, kiểm toán nội bộ có phải một bước trong quá trình đề xuất thăng tiến không và kiểm toán nội bộ có được xem là một bước phát triển trong sự nghiệp của nhân viên không. Sau khi thu thập dữ liệu từ 108 tổ chức ở Israel, kết quả cho thấy không có mối liên hệ giữa biến này đến tính hiệu lực của kiểm toán nội bộ.

1.2.2.6. Khu vực kinh doanh của tổ chức

Việc phân loại khu vực nhà nước và tư nhân căn cứ trên các mục tiêu của tổ chức. Các tổ chức tư nhân thường quan tâm đến việc tối đa hóa lợi nhuận, trong khi các tổ chức công thuộc nhà nước tập trung vào việc cải thiện dịch vụ. Goodwin (2003, 2004), trong hai nghiên cứu về kiểm toán viên nội bộ ở Úc và NewZealand, đã xác định một số khác biệt quan trọng giữa kiểm toán nội bộ trong khu vực tư nhân so với khu vực công. Goodwin (2004) ghi nhận hai điểm khác biệt chính giữa các tổ chức công và tổ chức tư nhân. Thứ nhất, các cơ quan khu vực công hoạt động trong một khuôn khổ cứng nhắc, nơi các hoạt động của tổ chức phải được pháp luật cho phép. Thứ hai, các cơ quan này hoạt động định hướng phục vụ, do đó ít chú trọng vào các nhân tố chi phí và các vấn đề liên quan đến tính sinh lời. Spraakman (1985) lập luận rằng kiểm toán nội bộ là phổ biến hơn và được coi là quan trọng hơn trong các tổ chức công hơn so với các tổ chức tư nhân – phát hiện này cũng được hỗ trợ bởi Goodwin (2004), người tương tự thấy rằng các chức năng IA của khu vực công có vị thế cao hơn khu vực tư nhân đối tác.


Tuy nhiên, các lập luận khác chỉ ra kết luận ngược lại. Có cơ sở để nói rằng các tổ chức tư nhân, nói chung, có nhu cầu lớn hơn cho việc kiểm soát và giám sát nên đòi hỏi cao hơn về hoạt động kiểm toán nội bộ. Pfeffer và Leblebici (1973) lập luận rằng các tổ chức hoạt động trong một môi trường kinh doanh cạnh tranh phải đối mặt với áp lực nhiều hơn trong những tổ chức công, và một cách họ phản ứng với áp lực này là tăng cường hệ thống kiểm soát nội bộ. Thomas (1996) lập luận rằng các hệ thống kiểm soát đóng một vai trò quan trọng hơn trong các tổ chức tư nhân vì môi trường năng động và phức tạp của chúng, tạo ra nhiều rủi ro hơn cho tổ chức. Do đó, kiểm toán nội bộ phải quan trọng hơn và hiệu quả hơn trong tư nhân so với các tổ chức công.

Tuy không xuất hiện trong giả thuyết nghiên cứu chính, song khu vực kinh doanh là biến kiểm soát trong nghiên cứu của Hella Dellai và Mohamed Ali Brahim Omri (2016). Từ nghiên cứu trước đây của (Goodwin 2004) cho rằng loại hình của ngành (tư nhân hoặc công) tạo ra sự khác biệt về các mục tiêu và hoạt động của IA, tác giả nhận thấy trong khu vực tư nhân, các tổ chức hoạt động trong một môi trường cạnh tranh và có mức độ rủi ro cao hơn. Thật vậy, các tổ chức tư nhân quan tâm nhiều hơn đến việc giám sát hệ thống kiểm soát nội bộ và do đó cải thiện chức năng kiểm toán nội bộ của họ. Theo Goodwin (2003), khu vực được định nghĩa là một biến bằng 1 cho các tổ chức tư nhân và 0 cho các tổ chức công. Thu thập dữ liệu từ 148 tổ chức, trong đó 85,1% thuộc về khu vực tư nhân và 14,9% thuộc về khu vực công, kết quả cho thấy kiểm toán nội bộ có hiệu quả hơn trong khu vực tư nhân so với khu vực công, phù hợp với phát hiện của Cohen và Sayag (2010).

1.2.2.7. Một số nhân tố khác

Ngoài các nhân tố phổ biến đã được đề cập trên, một số nhân tố khác có thể xem xét đưa vào mô hình gồm có:

Mối quan hệ giữa kiểm toán nội bộ với kiểm toán độc lập: Abdulaziz Alzeban (2014) nghiên cứu mối quan hệ này dựa trên 6 khía cạnh: thái độ của kiểm toán nội bộ đối với kiểm toán viên độc lập, mức độ phối hợp, thảo luận về lợi ích các bên, về kế hoạch kiểm toán của 2 bên, mức độ phụ thuộc của kiểm toán độc lập phụ thuộc vào công việc của kiểm toán nội bộ, tần suất các cuộc họp, mức độ chia sẻ giấy tờ làm việc và sự thúc đẩy của nhà quản lý đến mối quan hệ giữa 2 bên. Kết quả khảo sát tại 79 tổ chức công tại Saudi Arabia cho thấy mối quan hệ này ảnh hưởng thuận chiều tới tính hiệu lực của kiểm toán nội bộ. Cũng xem xét về nhân tố này, nghiên cứu của Adhista Cahya Mustika (2015) thực hiện tại 33 tổ chức ở Indonesia cho kết quả ngược lại –


không có mối liên hệ nào giữa mối quan hệ giữa kiểm toán nội bộ và kiểm toán độc lập với tính hiệu lực của kiểm toán nội bộ.

Mức độ tương tác giữa kiểm toán nội bộ với Ủy ban kiểm toán: Marika Arena and Giovanni Azzone (2009) đo lường mức độ tương tác giữa kiểm toán nội bọ với Uỷ ban kiểm toán thông qua tần suất của các cuộc họp giữa UBKT với Trưởng ban KTNB (gán bằng 0 nếu không họp, bằng 1 nếu họp 1 lần/năm, bằng 2 nếu họp 2 lần/năm, bằng 3 nếu họp 3 lần/năm, và bằng 4 nếu họp 4 lần/năm hoặc nhiều hơn) và mức độ tham gia của UBKT trong việc giám sát và đánh giá công việc của KTNB. Kết quả cho thấy mức độ tương tác này có ảnh hưởng thuận chiều tới tính hiệu lực của KTNB. Jayalakshmy Ramachandran và cộng sự (2012) cũng thu được kết quả tương tự khi thực hiện nghiên cứu tại 20 ngân hàng ở Tanzania.

Sự hỗ trợ từ các đơn vị được kiểm toán tới kiểm toán nội bộ: Adhista Cahya Mustika (2015) đã tìm ra mối quan hệ thuận chiều, tức sự hỗ trợ từ phía các đơn vị được kiểm toán càng lớn thì tính hiệu lực của KTNB trong tổ chức càng cao. Trong đó, sự hỗ trợ từ phía các đơn vị được kiểm toán được đo lường qua mức độ hỗ trợ giúp KTNB thực hiện nhiệm vụ, trách nhiệm của mình, mức độ cung cấp đầy đủ các thông tin được yêu cầu và khả năng thực hiện các đề xuất do kiểm toán đưa ra.

Quy mô phòng kiểm toán nội bộ: Abdulaziz Alzeban (2014) định nghĩa quy mô phòng kiểm toán nội bộ thông qua số kiểm toán viên nội bộ có trong bộ phận này, và kết quả cho thấy một mối quan hệ thuận chiều, tức quy mô càng lớn thì tính hiệu lực của kiểm toán nội bộ càng tăng.

Thuê ngoài kiểm toán nội bộ: Hella Dellai và Mohamed Ali Brahim Omri (2016) dùng thước đo nhị phân, tổ chức thực hiện thuê ngoài kiểm toán nội bộ nhận giá trị bằng 1, trong khi các tổ chức tự có bộ phận kiểm toán nội bộ nhận giá trị 0. Đã đưa vào nghiên cứu song kết quả cho thấy tác giả chưa tìm ra mối quan hệ giữa việc thuê ngoài với tính hiệu lực của kiểm toán nội bộ.

Quy mô công ty, ngành nghề kinh doanh và tình trạng niêm yết: ba biến này được đề cập đến trong nghiên cứu của Marika Arena và Giovanni Azzone (2009). Các tác giả đo lường quy mô công ty thông qua doanh thu, với ngành nghề kinh doanh thì gán bằng 1 nếu là ngân hàng hoặc công ty bảo hiểm, bằng 0 trong các trường hợp khác, tương tự với tình trạng niêm yết, gán bằng 1 nếu tổ chức đã niêm yết, bằng 0 nếu ngược lại. Kết quả cho thấy cả ba biến đều có tác động thuận chiều, tức quy mô công ty càng lớn thì tính hiệu lực KTNB càng tăng, đồng thời ngân hàng hoặc các công ty bảo hiểm, hoặc các công ty đã niêm yết có KTNB hoạt động với tính hiệu lực cao hơn.


1.3. Khoảng trống nghiên cứu

Thông qua việc tổng quan các nghiên cứu về tính hiệu lực và các nhân tố ảnh hưởng đến tính hiệu lực của KTNB, nghiên cứu sinh rút ra một số nhận định để làm cơ sở cho việc lựa chọn đề tài nghiên cứu của mình như sau:

Hầu hết các nghiên cứu về hiệu lực của KTNB được thực hiện cho khu vực công tại các nước phát triển. Trong khi sự công nhận ngày càng tăng của khu vực tư nhân trong các nền kinh tế mới nổi, nhu cầu nghiên cứu, lý giải các vấn đề liên quan đến hiệu lực kiểm toán nội bộ là không thể phủ nhận. Vai trò then chốt của khu vực tư nhân trong các nền kinh tế mới nổi và phát triển làm cho nhu cầu này đối với các nhà nghiên cứu càng trở nên đáng giá. Bên cạnh đó, về các nhân tố ảnh hưởng, dường như còn thiếu nhất trí về các biến đo lường hiệu lực kiểm toán nội bộ (Endaga & Hanefah, 2013). Trong các nhân tố ảnh hưởng: (i) các đặc tính của kiểm toán viên nội bộ được coi là cốt lõi và hầu hết các công trình nghiên cứu đều khẳng định có tác động tích cực đến hiệu lực của KTNB; tuy vậy, (ii) mối quan hệ giữa sự hỗ trợ của nhà quản lý và hiệu lực kiểm toán nội bộ không thống nhất trong các kết quả nghiên cứu; (iii) mối quan hệ của kiểm toán viên nội bộ với những người khác bao gồm kiểm toán viên bên ngoài, trưởng KTNB, quản lý cấp cao và vai trò của các mối quan hệ này trong việc nâng cao hiệu lực kiểm toán nội bộ trong tổ chức được các tổng quan nghiên cứu gần đây đề xuất tiếp tục nghiên cứu trong tương lai (Edward Yeboah, 2020).

Về mặt thực tiễn, xuất phát từ tầm quan trọng của Kiểm toán nội bộ trong các ngân hàng thương mại: tính đến nay, vai trò của KTNB đã được coi trọng tại các NHTM Việt Nam, việc thiết lập chức năng KTNB trong cấu phần quản trị công ty tại các NHTM đã được thực hiện do những quy định bắt buộc và thông tư hướng dẫn của Ngân hàng nhà nước, tuy vậy, hiệu lực và các nhân tố ảnh hưởng tới hiệu lực của KTNB tại các NHTM Việt Nam vẫn chưa được kiểm tra thực nghiệm. Vì đây là một nghiên cứu tại Việt Nam nên kết quả thực nghiệm sẽ cho thấy tác động của từng nhân tố được lựa chọn kiểm định đến tính hiệu lực của KTNB tại NHTM Việt Nam.

Qua quá trình tìm hiểu các nghiên cứu trên thế giới và nghiên cứu trong nước trước đây về hiệu lực của KTNB đã được thực hiện rất nhiều tại các thị trường và thời gian khác nhau, cũng như bằng các phương pháp khác nhau nên đã đưa ra các kết luận khác nhau, cũng như lấy ý kiến các chuyên gia trong lĩnh vực kiểm toán và ngân hàng tại Việt Nam nhằm xác định các nhân tố tác động đến tính hiệu lực của KTNB tại các NHTM Việt Nam, luận án đã xác định sáu nhân tố cần được nghiên cứu phù hợp với các Ngân hàng thương mại Việt Nam, đó là: Nguồn lực của KTNB, Tính độc lập của


KTNB, Các hoạt động của KTNB, Sự hỗ trợ của các nhà quản lý đến KTNB, Sử dụng KTNB trong đào tạo và phát triển nguồn nhân lực, Mối quan hệ giữa KTNB với kiểm toán độc lập.

Như vậy, để bổ sung cho các nghiên cứu trước đây, nghiên cứu sinh đã lựa chọn “Các nhân tố ảnh hưởng đến tính hiệu lực của Kiểm toán nội bộ tại các ngân hàng thương mại Việt Nam” làm đề tài luận án tiến sỹ của mình. Với hướng nghiên cứu này, nghiên cứu sinh tin tưởng rằng những đóng góp mới về mặt lý luận sẽ làm phong phú thêm hệ thống tài liệu về Kiểm toán nội bộ nói chung và tính hiệu lực của KTNB nói riêng, những đóng góp về mặt thực tiễn sẽ giúp các nhà quản lý ngân hàng hiểu được nhân tố nào đóng góp vào tính hiệu lực của KTNB, từ đó có những quyết định quản trị đúng đắn làm mạnh mẽ hơn chức năng KTNB, hướng đến việc nâng cao năng lực quản trị công ty trong ngân hàng, giúp ngân hàng nâng cao hiệu suất kinh doanh, giảm thiểu rủi ro và đảm bảo tăng trưởng bền vững trong môi trường kinh doanh nhiều biến động.

1.4. Mục tiêu nghiên cứu

Mục tiêu nghiên cứu tổng quát của đề tài là xác định cách đo lường tính hiệu lực và các nhân tố ảnh hưởng đến tính hiệu lực của kiểm toán nội bộ trong các Ngân hàng thương mại Việt Nam, trên cơ sở đó giúp các ngân hàng cải thiện năng lực quản trị công ty, nâng cao hiệu quả kinh doanh và phát triển bền vững trong bối cảnh hội nhập.

Từ mục tiêu nghiên cứu tổng quát trên, các mục tiêu nghiên cứu cụ thể được xác định như sau:

- Xác định cách thức và các tiêu chí đo lường tính hiệu lực của kiểm toán nội bộ trong các Ngân hàng thương mại Việt Nam.

- Xác định các nhân tố có ảnh hưởng đến tính hiệu lực của Kiểm toán nội bộ trong các Ngân hàng thương mại Việt Nam.

- Đo lường mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố đó đến tính hiệu lực của kiểm toán nội bộ trong các Ngân hàng thương mại Việt Nam.

- Đánh giá thực trạng về chức năng kiểm toán nội bộ của các ngân hàng thương mại Việt Nam, căn cứ vào các tiêu chí đo lường tính hiệu lực và các nhân tố ảnh hưởng đến tính hiệu lực của KTNB.

- Trên cơ sở kết quả nghiên cứu đạt được, đề xuất khuyến nghị với các bên liên quan bao gồm Ban lãnh đạo các ngân hàng thương mại, Ngân hàng nhà nước, các hiệp


hội nghề nghiệp kiểm toán và các đơn vị đào tạo nhằm nâng cao tính hiệu lực của KTNB tại các NHTM Việt Nam.

1.5. Câu hỏi nghiên cứu

Để đạt được những mục tiêu nghiên cứu trên, luận án đặt ra các câu hỏi sau:

- Tính hiệu lực của kiểm toán nội bộ được tiếp cận và đo lường như thế nào?

- Những nhân tố nào ảnh hưởng đến tính hiệu lực của KTNB tại các ngân hàng thương mại Việt Nam? Và mức độ ảnh hưởng của những nhân tố đó đến tính hiệu lực của KTNB tại các Ngân hàng thương mại Việt Nam như thế nào?

- Những khuyến nghị nào cần thiết để nâng cao tính hiệu lực của KTNB tại các Ngân hàng thương mại Việt Nam?

1.6. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu: Tính hiệu lực của KTNB tại các ngân hàng thương mại Việt Nam và các nhân tố ảnh hưởng đến tính hiệu lực của kiểm toán nội bộ tại các NHTM Việt Nam.


Phạm vi nghiên cứu:

Không gian nghiên cứu: Nghiên cứu về kiểm toán nội bộ của 35 NHTM Việt Nam (100% các NHTM Việt Nam) bao gồm gồm 4 ngân hàng thương mại do Nhà nước làm chủ sở hữu và 31 ngân hàng thương mại cổ phần.

Thời gian khảo sát: từ tháng 3 đến tháng 7 năm 2021.

Đối tượng khảo sát: Trưởng bộ phận KTNB, kiểm toán viên nội bộ, các thành viên của Ủy ban kiểm toán hoặc Ban kiểm soát, nhà quản lý cấp trung và cấp cao đang làm việc tại các NHTM Việt Nam.

Luận án chỉ nghiên cứu về KTNB thực hiện trong các NHTM Việt Nam, không nghiên cứu về KTNB do Kiểm toán Nhà nước và kiểm toán độc lập thực hiện trong các NHTM Việt Nam.

1.7. Kết cấu của luận án

Ngoài phần Mục lục, danh mục các ký hiệu viết tắt, danh mục sơ đồ bảng biểu, lời mở đầu và kết luận, Luận án gồm 5 chương như sau:

Chương 1. Giới thiệu đề tài nghiên cứu

Xem toàn bộ nội dung bài viết ᛨ

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 14/03/2023