Mặc dù thuộc bộ phận quản lý cấp cao nhưng kiểm toán nội bộ chưa phát huy hết chức năng của mình. Mối quan hệ giữa bộ phận kiểm toán nội bộ với các bộ phận khác trong ngân hàng chưa hiệu quả, một phần lý do quan trọng là vai trò của kiểm toán nội bộ trong quản trị ngân hàng hiện đại chưa được thực hiện đúng như thông lệ. Trên thực tế, hoạt động quản trị ngân hàng tại Việt Nam còn chưa đáp ứng được các thông lệ phổ biến trên thế giới và thiếu nhất quán giữa các khối NHTMNN, NHTMCP, NHLD và NHNN. Các vấn đề về quản trị ngân hàng hiện đại được đặt ra như: xác lập vị thế và vai trò của HĐQT, BKS và vai trò của Ủy ban kiểm toán/ hoặc Ban kiểm toán nội bộ trong mối quan hệ với HĐQT và Ban điều hành; đảm bảo tính minh bạch của thông tin phục vụ kiểm toán; mối quan hệ giữa các phòng/ ban trong việc trao đổi cung cấp thông tin phục vụ kiểm toán. Đặc biệt tại NHTMNN chưa được cổ phần hóa, hệ thống ra quyết định phức tạp và thiếu minh bạch do thông tin cung cấp chưa kịp thời, chưa tách bạch giữa quyền sở hữu, quyền kiểm soát và điều hành nên việc giải quyết công việc có thể bị chồng chéo. Điều này đã ảnh hưởng tới tính vị thế độc lập và chất lượng của bộ phận kiểm toán nội bộ.
Thứ ba, chất lượng nguồn nhân lực kiểm toán nội bộ ngân hàng đang thiếu và chưa đủ mạnh. Nếu các NHTMNN không xây dựng kịp thời hệ thống khuyến khích và sử dụng nhân lực hiệu quả thì khó tuyển dụng và giữ được cán bộ kiểm toán có chất lượng. Việc quản lý và sự dụng nguồn lực kiểm toán nội bộ bao gồm: yếu tố đầu vào (tuyển dụng), đào tạo (nội dung chuyên môn/ phần mềm, chương trình đào tạo… tại chính các ngân hàng và từ các nơi khác); sử dụng, đãi ngộ, khen thưởng, kỷ luật… vẫn chưa được các ngân hàng quan tâm đúng mức, đặc biệt trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế hiện nay.
2.3.3. Nguyên nhân của những hạn chế
Những tồn tại nêu trên là do những nguyên nhân sau đây:
Thứ nhất, khuôn khổ pháp lý tạo nên môi trường hoạt động ngân hàng còn chưa đồng bộ và thuận lợi cho việc áp dụng thông lệ tốt nhất về kiểm toán nội
bộ trong các NHTMNN. Cụ thể, thiếu sự hỗ trợ về công nghệ kiểm toán nội bộ từ phía những cơ quan chuyên môn như: Hiệp hội nghề nghiệp, Hiệp hội ngân hàng, các tổ chức quốc tế về kiểm toán nội bộ; Nhà nước chưa có sự hướng dẫn thống nhất về công việc kiểm toán nội bộ NHTM bao gồm: áp dụng chuẩn mực đạo đức, chuẩn mực nghề nghiệp trong lĩnh vực ngân hàng.
Thứ hai, yêu cầu vận dụng Basel II, III theo thông lệ quốc tế vào hoạt động kinh doanh ngân hàng từ nay đến năm 2020 đã buộc các cơ quan quản lý, NHNN, Hiệp hội Ngân hàng, cũng như bản thân các NHTMNN phải tập trung nguồn lực, trí tuệ mạnh mẽ để nghiên cứu, triển khai. Tuy nhiên trong thực tế phát sinh nhiều khó khăn từ nội tại nền kinh tế cũng như bản thân cơ quan quản lý và các ngân hàng do vẫn còn thiếu về nguồn nhân lực, cơ sở hạ tầng, vật chất kỹ thuật để vận dụng, triển khai. Đồng thời hoạt động quản trị ngân hàng ở Việt Nam còn nhiều vấn đề phải giải quyết, trong đó phải giải quyết mối quan hệ giữa các bộ phận lãnh đạo cấp cao. Một trong nhiều nguyên nhân làm giảm hiệu quả của bộ phận kiểm toán nội bộ có thể thấy là từ vai trò của Ban kiểm soát. Hiện nay Ban kiểm soát các ngân hàng thực hiện kiểm tra công việc của Ban điều hành nhiều hơn là giám sát công việc của HĐQT và các Ủy ban. Điều đó dẫn tới thực tế sai phạm có thể xảy ra ở cấp lãnh đạo cao nhất do việc kiểm soát yếu và từ đó làm giảm vai trò chỉ đạo bộ phận kiểm toán nội bộ.
Thứ ba, cơ sở đánh giá thông tin trong hoạt động kiểm toán nội bộ NHTMNN còn thiếu và chưa đồng bộ. Đối với lĩnh vực kiểm toán báo cáo tài chính, hiện nay ở Việt Nam vẫn chưa ban hành nhóm chuẩn mực kế toán về ghi nhận và trình bày các công cụ tài chính, cũng như thiếu những hướng dẫn cụ thể đối với những nghiệp vụ ngân hàng đặc thù. Điều này gây khó khăn cho công việc kiểm toán khi thiếu những căn cứ khách quan để đánh giá thông tin. Mặt khác, 5 NHTMNN hiện nay phải thực hiện kiểm toán báo cáo tài chính theo hai hệ thống chuẩn mực kế toán Việt Nam (VAS) và chuẩn mực kế toán quốc tế (IAS) (do các NHTMNN nằm trong dự án tái cơ cấu do Ngân hàng thế
Có thể bạn quan tâm!
- Bảng Hướng Dẫn Trọng Số, Thang Điểm Và Tiêu Thức Chấm Điểm Rủi Ro
- Đánh Giá Lại Rủi Ro Và Điều Chỉnh Chương Trình Kiểm Toán
- Nguồn Nhân Lực Kiểm Toán Nội Bộ Ngân Hàng Thương Mại Nhà Nước Việt Nam
- Gắn Với Mô Hình Hoạt Động Kinh Doanh Và Chiến Lược Phát Triển Của Từng Ngân Hàng Thương Mại Nhà Nước
- Các Bước Của Cuộc Kiểm Toán Dựa Vào Rủi Ro [36]
- Mối Quan Hệ Của Kiểm Toán Nội Bộ Với Các Bộ Phận Trong Tổ Chức Quản Lý Rủi Ro Tác Nghiệp Tại Các Nhtm Nhà Nước
Xem toàn bộ 177 trang tài liệu này.
giới tài trợ) nhưng hệ thống kế toán của các ngân hàng này mới chỉ tuân thủ 50% chuẩn mực kế toán quốc tế nên kết quả kiểm toán theo VAS và IAS là có sự khác biệt đáng kể (ví dụ ở những nội dung: đánh giá nợ xấu, các khoản trích lập dự phòng, các công cụ phái sinh…). Điều này ảnh hưởng trực tiếp tới nội dung, phương pháp, quy trình kiểm toán nội bộ.
Thứ tư, thiếu sự kết hợp chặt chẽ giữa cơ quan quản lý của Nhà nước và các cơ quan chuyên môn trong kiểm tra, giám sát công việc kiểm toán nội bộ NHTM. Cụ thể ở Việt Nam hiện nay, NHNN vừa là cơ quan quản lý hành chính, vừa là cơ quan chuyên môn kiểm soát chất lượng kiểm toán ngân hàng. Điều này dễ gây chồng chéo trong công việc quản lý và hoạt động chuyên môn, đặc biệt trong lĩnh vực kiểm toán nội bộ. Sự thiếu vắng của Hiệp hội nghề nghiệp kiểm toán nội bộ nói chung và trong lĩnh vực ngân hàng nói riêng ở nước ta đã tạo ra khoảng trống cho những người làm nghề kiểm toán nội bộ. Bởi họ thiếu nơi để trao đổi về mặt nghiệp vụ, thiếu tài liệu học tập và ít có cơ hội nâng cao kiến thức chuyên môn; không có nơi tổ chức thi tuyển lấy chứng chỉ kiểm toán viên nội bộ…
Thứ năm, công tác tuyển dụng nhân sự trong thực tế gặp nhiều khó khăn. Xu hướng lao động chất lượng cao chuyển tới các môi trường làm việcphù hợp, thuận lợi, ưu đãi hơn luôn diễn ra giữa các ngân hàng. Do vậy việc tuyển dụng, đào tạo và quản lý nguồn nhân lực luôn là mối quan tâm hàng đầu của Ban lãnh đạo các ngân hàng. Mặt khác, ngay tại các NHTMNN vẫn còn tồn tại tình trạng những cán bộ làm công việc kinh doanh mà chưa đủ nhạy bén thì có thể bị luân chuyển sang các bộ phận khác, trong đó có bộ phận kiểm toán nội bộ. Như vậy nhân lực kiểm toán nội bộ có thể bao gồm những người nhiều tuổi, khả năng thích ứng công nghệ kiểm toán mới cũng bị hạn chế.
Thứ sáu, nhận thức của nhà quản lý trong các NHTMNN về hoạt động kiểm toán nội bộ vẫn chưa thực sự được chú trọng, từ đó làm giảm hiệu quả công tác kiểm toán nội bộ. Điều này xuất phát từ xu hướng chung của các
ngành nghề trong nền kinh tế, khi mà chi phí bỏ ra để xây dựng và duy trì bộ phận này còn khá lớn so với lợi ích mà chúng tạo ra cho các ngân hàng. Mặt khác, các cá nhân/ phòng ban và các chi nhánh chưa thấy hết được bản chất và tầm quan trọng của kiểm toán nội bộ nên việc phối hợp trong công việc chưa đạt được hiệu quả. Việc phải tuân thủ những mục tiêu, nguyên tắc và quy định chỉ áp dụng riêng trong lĩnh vực kiểm toán nội bộ ngân hàng do các tổ chức quốc tế ban hành cũng tạo ra những rào cản nhất định cho các NHTMNN trong lộ trình xây dựng bộ phận kiểm toán nội bộ ngân hàng đáp ứng các yêu cầu phù hợp với thông lệ phổ biến trên thế giới.
Kết luận chương 2
Dựa vào kết quả của chương 1 và khảo sát thực trạng về quá trình và tổ chức bộ máy kiểm toán nội bộ tại các NHTMNN Việt Nam trong những năm gần đây, chương 2 được NCS nghiên cứu trong bối cảnh nhu cầu cải tổ ngành ngân hàng giai đoạn 2011-2020 diễn ra mạnh mẽ, hệ thống văn bản pháp lý về kiểm toán nội bộ mới ban hành, tiến trình triển khai hiệp ước Basel phù hợp với thông lệ quốc tế ở Việt Nam đang còn nhiều khó khăn và thách thức đã đặt ra yêu cầu cấp thiết về quản trị rủi ro thông qua hiệu quả kiểm toán nội bộ ngân hàng. Cụ thể:
- Một là: Khái quát tình hình hoạt động và đặc điểm hoạt động của các NHTMNN Việt Nam ảnh hưởng tới công tác kiểm toán nội bộ trong giai đoạn hiện nay.
- Hai là: Đi sâu phân tích thực trạng quá trình và tổ chức bộ máy kiểm toán nội bộtrong các NHTMNN sau khi Luật TCTD mới và TT 44 về kiểm soát và kiểm toán nội bộ ngân hàng có hiệu lực.
- Ba là: Đánh giá những kết quả đạt được và những hạn chế trong công tác kiểm toán nội bộ NHTMNN; chỉ ra những nguyên nhân hạn chế làm cơ sở để đưa ra những kiến nghị về giải pháp ở chương 3.
Điểm mới của chương 2 là chỉ ra sự thay đổi cấp bách trong mối quan hệ giữa công tác quản trị rủi ro (đặc biệt là rủi ro tín dụng và rủi ro hoạt động) của các NHTMNN hiện nay và công việc kiểm toán nội bộ. Điều đó đòi hỏi hệ thống NHTMNN phải nghiên cứu, xây dựng và triển khai mô hình phòng vệ 3 lớp trong quản trị rủi ro mà ở đó kiểm toán nội bộ đóng vai trò là lớp phòng vệ cuối cùng, chịu trách nhiệm cung cấp thông tin cho bộ phận quản trị cấp cao của ngân hàng. Đây là điểm mấu chốt giúp hệ thống ngân hàng phát triển an toàn, bền vững trong giai đoạn suy thoái kinh tế hiện nay. Trong chương 3, NCS sẽ đi vào nghiên cứu các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng quá trình và bộ máy kiểm toán nội bộ với công cụ là lớp bảo vệ cuối cùng đối với hoạt động ngân hàng nói chung và quản trị rủi ro nói riêng. Đây chính là kết quả nghiên cứu riêng của NCS mà các công trình về kiểm toán nội bộ liên quan trong lĩnh vực này chưa chỉ ra được.
Chương 3
HOÀN THIỆN QUÁ TRÌNH VÀ TỔ CHỨC
BỘ MÁY KIỂM TOÁN NỘI BỘ TRONG CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI NHÀ NƯỚC VIỆT NAM
3.1. ĐỊNH HƯỚNG HOÀN THIỆN KIỂM TOÁN NỘI BỘ TRONG CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI NHÀ NƯỚC VIỆT NAM
3.1.1. Định hướng phát triển hệ thống Ngân hàng thương mại Nhà nước Việt Nam đến năm 2020 [21]
Hội nhập kinh tế quốc tế được coi là xu hướng chủ đạo chi phối sự phát triển của ngành ngân hàng trong 10 năm tới, tạo nhiều cơ hội cho sự phát triển của khu vực tài chính - ngân hàng Việt Nam; giúp các Ngân hàng thương mại tiếp cận vốn từ thị trường tài chính quốc tế dễ dàng hơn thông qua việc phát hành trái phiếu quốc tế, cổ phiếu niêm yết trên thị trường chứng khoán quốc tế. Cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng ngày càng gay gắt, nhưng cũng tạo điều kiện cho các Ngân hàng thương mại Việt Nam học hỏi được kinh nghiệm quản lý, kiến thức và công nghệ tài chính hiện đại từ các tổ chức tài chính nước ngoài. Bên cạnh những tác động tích cực, thì việc mở cửa hội nhập cũng có nhiều thách thức. Vì thế định hướng phát triển hệ thống Ngân hàng thương mại Việt Nam được thể hiện:
Từng bước ổn định hệ thống Ngân hàng thương mại Việt Nam, phấn đấu đến năm 2020 có một hệ thống ngân hàng tương xứng với một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Hệ thống các tổ chức tín dụng cấu trúc hợp lý, hiện đại đa năng, an toàn, lành mạnh và hiệu quả vững chắc, thực hiện tốt vai trò huyết mạch, phục vụ đắc lực cho quá trình phát triển nhanh, bền vững của nền kinh tế.
Trong chiến lược phát triển ngành ngân hàng Việt Nam đến năm 2020 có chỉ rõ: Đối với các Ngân hàng thương mại, thực hiện cơ cấu lại toàn diện hệ thống các tổ chức tín dụng, hình thành một cơ cấu hợp lý về số lượng, quy mô,
loại hình tổ chức tín dụng. Nâng cao chất lượng tài sản có, duy trì tỷ lệ nợ xấu ở mức 3% so với tổng dư nợ. Hệ số an toàn vốn (CAR) của nhóm các Ngân hàng thương mại lớn và nhóm các Ngân hàng thương mại quy mô vừa trở xuống lần lượt là 14% và 13%; giảm tỷ lệ tín dụng/tiền gửi, đến cuối năm 2015 đạt mức bình quân toàn hệ thống không quá 85%, duy trì ở mức 85%-90% trong giai đoạn 2016-2020. Nâng cao hơn tỷ lệ thu nhập ngoài lãi của các Ngân hàng thương mại, duy trì tốc độ tăng trưởng tín dụng đối với nền kinh tế khoảng 15%
-17% giai đoạn 2013-2015 và 13%-15% giai đoạn 2016- 2020. Đến năm 2020, có từ 3-4 tập đoàn tài chính hoạt động theo mô hình công ty mẹ là một ngân hàng, có ít nhất 04 Ngân hàng thương mại có quy mô ngang tầm khu vực, đóng vai trò trụ cột trong hệ thống, có năng lực cạnh tranh quốc tế, hoạt động đa năng trên phạm vi quốc gia và quốc tế. Nâng cao vai trò, vị trí chi phối dẫn dắt thị trường của các tổ chức tín dụng Việt Nam, đảm bảo các NHTM NN và NHTM CP có cổ phần chi phối của nhà nước tiếp tục đóng vai trò chủ đạo của hệ thống các tổ chức tín dụng. Các Ngân hàng thương mại tiếp tục hoàn thiện thể chế, quy định, quy trình quản lý rủi ro nội bộ để triển khai và thực hiện có hiệu quả chuẩn mực quản trị rủi ro ngân hàng theo tiêu chuẩn Basel II, đảm bảo tất cả các Ngân hàng thương mại áp dụng và thực hiện các chuẩn mực quốc tế về quy định an toàn cho hoạt động ngân hàng. Việc xây dựng lộ trình áp dụng Basel II đã được NHNN Việt Nam phê duyệt trong kế hoạch hành động nhằm thực hiện Đề án tái cơ cấu lại hệ thống tổ chức tín dụng. Theo đó, NHNN chủ trương triển khai việc áp dụng Basel II theo 2 giai đoạn: giai đoạn 1 từ năm 2013 đến năm 2015 và giai đoạn 2 từ năm 2016 đến năm 2018. Để chuẩn bị cho những thách thức trong triển khai Basel II, các ngân hàng cần đầu tư vào nguồn lực, đào tạo, công nghệ thông tin và hệ thống quản lý rủi ro. Đây cũng là những tiền đề cơ bản để tiến tới triển khai áp dụng Basel III. Lộ trình áp dụng Basel II, III với những kế hoạch hành động cụ thể có thể coi là sự thay đổi lịch sử trong quan điểm về hoạt động ngân hàng của Việt Nam thời gian tới. Trong bối cảnh hội nhập sâu rộng vào thị
trường tài chính quốc tế, hoạt động kinh doanh của hệ thống ngân hàng Việt Nam sẽ luôn tiềm ẩn những rủi ro khó lường. Vì vậy cần thiết phải nâng tầm hoạt động kiểm toán nội bộ vì sự phát triển của chính các Ngân hàng thương mại và sự ổn định của toàn hệ thống.
3.1.2. Sự cần thiết phải hoàn thiện kiểm toán nội bộ trong các Ngân hàng thương mại Nhà nước Việt Nam
3.1.2.1. Xuất phát từ việc cơ cấu lại Ngân hàng thương mại Nhà nước giai đoạn 2011-2015 của Thủ tướng Chính phủ
Theo Đề án “Cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng giai đoạn 2011- 2015” ban hành kèm theo Quyết định số 254/QĐ-TTg ngày 1/3/2012 của Thủ tướng Chính phủ, NHTMNN đóng vai trò quan trọng trong quá trình cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng. Trong giai đoạn hiện nay cần nâng cao vai trò chủ đạo của các NHTMNN; bảo đảm các NHTMNN thực sự là lực lượng chủ lực, chủ đạo của hệ thống các tổ chức tín dụng, có quy mô lớn, hoạt động an toàn, hiệu quả, có năng lực quản trị tiên tiến, khả năng cạnh tranh trong nước và quốc tế. Phấn đấu đến năm 2015 hình thành được từ 1 - 2 NHTMNN đạt trình độ khu vực về quy mô, quản trị, công nghệ và khả năng cạnh tranh. Hiện nay việc tái cơ cấu các NHTMNN đã và đang đi vào thực hiện theo từng giai đoạn như: cơ cấu lại NHTMNN (nhóm B) với nội dung: “Đổi mới hệ thống quản trị ngân hàng phù hợp với thông lệ, chuẩn mực quốc tế tiên tiến, đặc biệt tăng cường hiện đại hóa hệ thống quản trị rủi ro, nâng cao hiệu quả hệ thống kiểm soát, kiểm toán nội bộ” cho giai đoạn 2012-2015. Để quá trình cơ cấu đạt hiệu quả thì một trong những giải pháp quan trọng được đưa ra trong Đề án là đổi mới hệ thống quản trị ngân hàng, đặc biệt nâng cao hiệu quả kiểm toán nội bộ để các NHTMNN có khả năng tự kiểm soát các loại rủi ro trong hoạt động, trước hết là chất lượng tín dụng và khả năng thanh khoản.
3.1.2.2. Xuất phát từ nhu cầu nâng cao chất lượng và tính hiệu quả của hoạt động kiểm toán nội bộ Ngân hàng thương mại Nhà nước
Xu thế hội nhập quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng của Việt Nam đang diễn ra nhanh chóng trong vài thập niên trở lại đây với sự lớn mạnh của toàn hệ thống cả về số lượng, chất lượng. Điều này thể hiện ở việc nhiều ngân hàng đã mở rộng phạm vi hoạt động ra ngoài lãnh thổ, cung cấp các sản phẩm dịch vụ mới, liên kết với các đối tác nước ngoài để khẳng định thương hiệu, tạo ra sự cạnh tranh gay gắt giữa các khối đặc biệt là các NHTMNN. Tuy nhiên trong bối cảnh nền kinh tế của thế giới và Việt Nam suy giảm đã khiến các ngân hàng phải cải tổ để thu hút đầu tư, lành mạnh hóa tình hình tài chính. Thêm vào đó thời gian gần đây các ngân hàng đang phải đối mặt với sự gia tăng của các loại rủi ro truyền thống (như là hậu quả của quá trình suy giảm kinh tế và áp lực cạnh tranh) như rủi ro tín dụng, rủi ro thị trường..., với phạm vi ảnh hưởng lan rộng không chỉ ở một quốc gia mà còn ra tới các khu vực và toàn thế giới. Đồng thời sự ảnh hưởng của yếu tố công nghệ thông tin đã đẩylĩnh vực kinh doanh ngân hàng tới những loại rủi ro mới ngày càng phức tạp như rủi ro hoạt động, rủi ro về đạo đức…Việc quản lý các rủi ro này là cần thiết đối với sự thành công của mỗi ngân hàng. Trong bối cảnh này bộ phận kiểm toán nội bộ với vai trò là công cụ của hệ thống giám sát sẽ đưa ra ý kiến đảm bảo rằng các loại rủi ro trên là được nhận diện, đánh giá và quản lý hiệu quả trong tổng thể hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Do vậy việc nâng cao chất lượng của kiểm toán nội bộ trong giai đoạn hiện nay là nhiệm vụ trọng tâm hàng đầu của các NHTMNN, giúp bộ phận này có đủ năng lực, trình độ, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao, góp phần tích cực giám sát, hạn chế rủi ro, giúp ngân hàng hoạt động tăng trưởng, an toàn và hiệu quả.
3.1.2.3. Xuất phát từ việc xây dựng các Ngân hàng thương mại Nhà nước hướng tới mô hình quản trị ngân hàng hiện đại trong bối cảnh hội nhập quốc tế
Dựa trên những nguyên tắc và thông lệ tốt nhất về quản trị công ty trong hoạt động ngân hàng do Ủy ban Basel xây dựng và ban hành, thì quản trị ngân
hàng hiện đại phải gắn với công tác quản trị rủi ro. Tại các NHTMNN sau cổ phần hóa, sự thay đổi về văn hóa và quản trị công ty sẽ đem lại những cơ hội và thách thức mới buộc các ngân hàng phải cải tổ để đáp ứng với những chuẩn mực quốc tế về tính minh bạch và năng lực chịu trách nhiệm của bộ phận quản trị, điều hành, kiểm soát của ngân hàng nhằm thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước; làm tiền đề giúp NHTMNN hội nhập sâu rộng vào thị trường tiền tệ thế giới. Thời gian qua, các NHTMNN dưới sự chỉ đạo của Ngân hàng Nhà nước đã nâng cấp công tác quản lý và giám sát hoạt động ngân hàng, cải thiện hoạt động quản lý rủi ro, giảm mức nợ xấu (NPL), nâng các hệ số an toàn vốn được quy định theo chuẩn mực của Basel II để phù hợp với IAS, thúc đẩy hợp tác chiến lược với các ngân hàng nước ngoài nhằm cải thiện triển vọng kinh doanh. Thực tế vẫn cần nhiều nỗ lực từ chính bản thân các NHTMNN thông qua việc cải thiện hoạt động quản trị rủi ro. Một trong những giải pháp để quản trị rủi ro thành công là sự trợ giúp của hệ thống kiểm toán nội bộ. Thông qua việc vận dụng nội dung, phương pháp, quy trình kiểm toán nội bộ dựa vào rủi ro để đánh giá hoạt động quản lý rủi ro trong ngân hàng. Từ đó xác định mức độ rủi ro tiềm tàng, rủi ro kiểm soát trên cơ sở khẩu vị rủi ro đã được định lượng trước để lập kế hoạch và thực hiện kiểm toán theo đúng yêu cầu và mục tiêu của nhà quản lý. Đây chính là định hướng trọng tâm để hoàn thiện tổ chức hoạt động kiểm toán nội bộ ngân hàng Việt Nam trong bối cảnh hiện nay.
3.2. QUAN ĐIỂM VÀ YÊU CẦU HOÀN THIỆN KIỂM TOÁN NỘI BỘ TRONG CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI NHÀ NƯỚC VIỆT NAM
3.2.1. Quan điểm hoàn thiện kiểm toán nội bộ
3.2.1.1. Hoàn thiện kiểm toán nội bộ là một quá trình thường xuyên, liên tục nhằm khắc phục hạn chế, giúp các Ngân hàng thương mại Nhà nước phát triển an toàn, hiệu quả trong giai đoạn mới
Quá trình kinh doanh trong lĩnh vực ngân hàng diễn ra liên tục ở mọi thời điểm, làm phát sinh các giao dịch và nghiệp vụ kinh tế với những nội dung đa
dạng, tiềm ẩn nhiều nguy cơ rủi ro. Điều này đặt ra yêu cầu phải tiến hành quản lý, kiểm soát và kiểm toán rủi ro từ chính các bộ phận chức năng bên trong ngân hàng. Nếu quá trình này diễn ra thường xuyên, liên tục sẽ giúp ngân hàng ngăn chặn được nguy cơ xảy ra rủi ro, đưa ra những cảnh báo sớm để hạn chế rủi ro một cách hiệu quả. Ngược lại nếu hoạt động kiểm toán nội bộ không được thực hiện thường xuyên thì việc phát hiện, ngăn chặn rủi ro sẽ không kịp thời làm giảm tính hiệu quả trong kinh doanh ngân hàng. Như vậy các ngân hàng buộc phải tiến hành hoạt động kiểm toán nội bộ, đồng thời phải thực hiện một cách đều đặn mới giúp nhà quản lý đạt được các mục tiêu. Rõ ràng nếu đứng trên phương diện luật pháp, yêu cầu phải kiểm toán nội bộ ngân hàng đã có ở hầu hết các quốc gia và được giám sát thực hiện bởi các cơ quan quản lý giám sát ngân hàng. Ở góc độ kinh tế, thông qua sự đảm bảo và tư vấn của kiểm toán nội bộ mà các cấp lãnh đạo trong ngân hàng có thể đưa ra các quyết định kinh doanh phù hợp, kịp thời; qua đó làm tăng giá trị cho ngân hàng bằng việc có thể giảm chi phí và tăng doanh thu dự kiến trong tương lai. Nhờ đó các ngân hàng có thể phát triển an toàn, bền vững trong giai đoạn mới.
3.2.1.2. Quá trình hoàn thiện phải phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế cũng như đặc điểm và trình độ của các Ngân hàng thương mại Nhà nước
Sự phát triển của nền kinh tế trong mỗi giai đoạn có những yêu cầu riêng, đòi hỏi từng NHTMNN phải đối mặt với thách thức cụ thể, qua đó tiến hành cải tổ để nắm bắt cơ hội, vươn lên giữ vững vai trò chủ đạo dẫn dắt thị trường của các tổ chức tín dụng Việt Nam. Có nhiều biện pháp cải tổ được đặt ra trong đó có việc hoàn thiện tổ chức kiểm toán nội bộ. Quá trình hoàn thiện này phải giúp hệ thống NHTMNN phát triển phù hợp với yêu cầu hội nhập quốc tế, có đủ năng lực cạnh tranh trong và ngoài nước, đáp ứng tốt hơn nhu cầu cung cấp dịch vụ ngân hàng cho mọi tầng lớp trong xã hội.
3.2.1.3. Quá trình hoàn thiện phải toàn diện cả về quá trình và tổ chức bộ máy kiểm toán theo một lộ trình thích hợp
Để việc hoàn thiện tổ chức kiểm toán nội bộ đạt hiệu quả, các NHTMNN phải chú trọng vào chất lượng của từng yếu tố cấu thành bộ phận này, trong đó không thể không nhắc tới tổ chức quá trình và bộ máy kiểm toán. Nếu hoàn thiện tổ chức nội dung, phương pháp, quy trình kiểm toán là điều kiện cần để quyết định sự thành công cuộc kiểm toán thì hoàn thiện cơ cấu tổ chức và kỹ năng, khả năng, tính độc lập của kiểm toán viên nội bộ là điều kiện đủ để giúp cuộc kiểm toán nội bộ đi đúng hướng, hoàn thành mục tiêu mà lãnh đạo ngân hàng xây dựng. Đặc biệt trong bối cảnh hiện nay, các NHTMNN đang phải cải thiện nhiều lĩnh vực để triển khai Hiệp ước Basel II theo đúng lộ trình NHNN đã đề ra (sau năm 2010 gần áp dụng được các nguyên tắc và chuẩn mực của Basel II). Như vậy việc hoàn thiện phải đảm bảo tính toàn diện cả về quá trình và tổ chức bộ máy kiểm toán nội bộ theo đúng lộ trình thích hợp, nhằm giúp các NHTMNN cải thiện hoạt động quản lý rủi ro, giảm mức độ nợ xấu, nâng các hệ số an toàn vốn theo thông lệ quốc tế.
3.2.2. Yêu cầu hoàn thiện kiểm toán nội bộ
3.2.2.1. Việc hoàn thiện phải đáp ứng được yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế
Ngày nay xu thế hội nhập kinh tế quốc tế đã đóng vai trò chủ đạo vào sự phát triển của mỗi quốc gia, mà ở đó các nước chủ động gắn kết với nhau thông qua các nỗ lực tự do hóa và mở cửa thị trường trên mọi giác độ. Quá trình hội nhập làm cho nền kinh tế mỗi nước ngày càng liên kết chặt chẽ với các nền kinh tế thành viên khác, từ đó làm cho kinh tế thế giới phát triển theo hướng thị trường chung thống nhất, cùng với sự gia tăng cạnh tranh lẫn nhau. Hội nhập về ngân hàng luôn diễn ra sôi động và nhạy bén nhất do những đặc điểm kinh doanh trong lĩnh vực này chi phối gần như toàn bộ các hoạt động kinh tế, xã hội, chính trị và cả quốc phòng của các quốc gia. Trong thời gian qua, hoạt