Nguồn Nhân Lực Kiểm Toán Nội Bộ Ngân Hàng Thương Mại Nhà Nước Việt Nam


- Thực hiện chức năng kiểm tra, đánh giá:

Các kiểm toán viên nội bộ thực hiện kiểm tra, đánh giá các thông tin được kiểm toán; xây dựng quy trình kiểm toán nội bộ, phát triển, bổ sung các phương pháp kiểm toán nội bộ, phạm vi kiểm toán nội bộ; tham gia lập kế hoạch kiểm toán và thực hiện kiểm toán theo chính sách, quy trình, thủ tục kiểm toán nội bộ. Qua đó, kiểm toán nội bộ có vai trò cung cấp sự đảm bảo rằng các NHTM hoạt động hiệu quả đạt các mục tiêu về quản trị ngân hàng (thông qua quản trị rủi ro), về kiểm soát nội bộ. Thực tế, chức năng kiểm tra, đánh giá được kiểm toán nội bộ ngân hàng thực hiện nhiều nhất, thông qua việc thu thập bằng chứng, các kiểm toán viên sẽ đưa ra những ý kiến nhận xét về hoạt động/ nghiệp vụ được kiểm toán. Các kiểm toán viên vẫn chủ yếu tìm kiếm sai phạm giống như chức năng kiểm tra tài chính, kế toán; hoặc xem xét tính tuân thủ các chính sách, nội quy, quy định nội bộ và đưa ra những đánh giá về mức độ chấp hành của đơn vị mình. Ở những NHTMNN mà chưa tách biệt được chức năng kiểm tra, kiểm soát và kiểm toán thì màu sắc kiểm toán nội bộ vẫn còn khá mờ nhạt, ngay cả khi Thông tư 44 về kiểm toán nội bộ của NHNN đã ban hành. Thông qua chức năng kiểm toán, kiểm toán nội bộ mới chỉ đưa ra được ý kiến đảm bảo về việc vận hành của một số bước kiểm soát liên quan chủ yếu tới hoạt động tín dụng, kế toán, đầu tư ngoại tệ và tỷ giá, quản lý và sử dụng tài sản cố định của ngân hàng hoặc việc tuân thủ quy định tài chính, kế toán ngân hàng. Do vậy nhà quản lý cấp cao và nhà đầu tư vào ngân hàng chưa có được sự đảm bảo của kiểm toán nội bộ về tính hiệu quả của hệ thống kiểm soát nội bộ và kiểm soát rủi ro trong hoạt động của Ngân hàng thương mại.

- Thực hiện chức năng tư vấn:

Kiểm toán nội bộ sẽ đưa ra các vấn đề có ảnh hưởng xấu tới hoạt động của ngân hàng; xem xét bản chất của ảnh hưởng và khuyến nghị nhằm khắc phục các vấn đề phát sinh; hoàn thiện nâng cao tính hiệu lực, hiệu quả của hệ thống kiểm soát nội bộ. Đồng thời kiến nghị xử lý vi phạm; tư vấn cho ban điều hành, hội


đồng quản trị và bộ phận nghiệp vụ nhưng không ảnh hưởng tới tính độc lập của kiểm toán nội bộ. Hiện nay, chức năng tư vấn của kiểm toán nội bộ ở các NHTMNN nói chung mới chỉ dừng lại ở chỗ đưa ra các khuyến nghị nhằm khắc phục các vấn đề phát sinh trong hoạt động ngân hàng (khuyến nghị xuất phát từ kết quả của kiểm tra, kiểm soát cụ thể). Kiểm toán nội bộ chưa cung cấp ý kiến tư vấn riêng biệt cho các cấp trong ngân hàng. Việc tư vấn cho Hội đồng quản trị, Ban điều hành và các bộ phận khác mới chỉ dừng lại ở ý kiến nhận xét trên báo cáo kiểm toán nội bộ ngân hàng. Ngược lại sự quan tâm tới ý kiến tư vấn của kiểm toán nội bộ và cân nhắc sử dụng để ra các quyết định của các cấp lãnh đạo cũng chưa được thực hiện thường xuyên khiến cho giá trị của cuộc kiểm toán nội bộ bị giảm đi ít nhiều.

- Thực hiện chức năng đào tạo:

Đào tạo cho các bộ phận khác trong ngân hàng nhằm tăng chất lượng nhân sự nhưng hoạt động này được thực hiện một cách không chính thức. Thực tế đây cũng là một sự lãng phí lớn về chất xám do đội ngũ kiểm toán viên nội bộ thường giàu kinh nghiệm và có đủ kỹ năng, khả năng chuyên môn. Tại các NHTMNN, bộ phận kiểm toán nội bộ còn thực hiện một số chức năng khác như: tuyển dụng, làm đầu mối làm việc với kiểm toán độc lập, Ngân hàng nhà nước, kiểm toán Nhà nước và thực hiện các chức năng khác do HĐQT, BKS giao.

Trên thực tế với sự hỗ trợ của WB thông qua dự án Hiện đại hóa ngân hàng và dự án Hỗ trợ liên kết kỹ thuật, các NHTMNN như BIDV, Vietinbank, Vietcombank, Agribank, MHB đã tích cực xây dựng cơ sở hạ tầng quan trọng cho việc triển khai những thông lệ tốt về quản trị ngân hàng, mà một trong những biện pháp tích cực là h nh thành hệ thống thông tin quản lư tập trung (MIS) và quản trị rủi ro. Trong bối cảnh này, vị thế của kiểm toán nội bộ được sử dụng như một công cụ giúp ban lãnh đạo các cấp của ngân hàng thực hiện quản trị rủi ro đạt mục tiêu và vận hành hệ thống thông tin quản lý theo đúng hướng. Điều này đồng nghĩa với chức năng, nhiệm vụ, vai trò của kiểm toán nội

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 177 trang tài liệu này.


bộ trong khối các NHTMNN đã được nâng cao để phù hợp với mục tiêu tái cơ cấu ngân hàng hiện nay. Nhưng thực trạng tại các NHTMNN trước và sau cổ phần hóa những khó khăn và vướng mắc vẫn tồn tại thể hiện ở mối quan hệ giữa HĐQT và BĐH; vai trò của các Ủy ban trong HĐQT còn mờ nhạt; kéo theo vai trò BKS và Ban kiểm toán nội bộ chưa thực hiện đúng chức năng nhiệm vụ và chưa hoàn thành mục tiêu đặt ra do có sự chi phối của tính độc lập. Có nhiều nguyên nhân tác động, trong đó có thể thấy các NHTMNN do phải thực hiện một số chính sách theo chỉ đạo của Chính phủ hoặc NHNN khi nền kinh tế khó khăn nên công việc kiểm toán nội bộ cũng có thể bị ảnh hưởng bởi tính minh bạch kém. Do vậy có thể thấy vị trí, vai trò của bộ phận kiểm toán nội bộ trong các NHTMNN cũng như chất lượng công việc của bộ phận này phụ thuộc nhiều vào mô hình quản trị công ty mà mỗi ngân hàng xây dựng và phát triển.

Hoàn thiện quá trình và tổ chức bộ máy kiểm toán nội bộ trong các ngân hàng thương mại nhà nước Việt Nam - 11

2.2.3.2. Nguồn nhân lực kiểm toán nội bộ Ngân hàng thương mại Nhà nước Việt Nam

Tại Việt Nam, theo Quyết định số 832-TC/QĐ/TCKT ban hành ngày 28/10/1997 của Bộ trưởng Bộ tài chính quy định về Quy chế kiểm toán nội bộ thì: “Kiểm toán viên nội bộ tại các doanh nghiệp Nhà nước phải có các tiêu chuẩn: (1) Có phẩm chất trung thực, khách quan, chưa có tiền án và chưa bị kỷ luật từ mức cảnh cáo trở lên do sai phạm trong quản lý kinh tế, tài chính, kế toán;

(2) Đã tốt nghiệp đại học chuyên ngành kinh tế, tài chính, kế toán, hoặc quản trị kinh doanh; (3) Đã công tác trong lĩnh vực quản lý tài chính, kế toán từ 5 năm trở lên, trong đó có ít nhất có 3 năm làm việc tại doanh nghiệp nơi được giao nhiệm vụ kiểm toán viên; (4) Đã qua huấn luyện về nghiệp vụ kiểm toán, kiểm toán nội bộ theo nội dung chương trình thống nhất của Bộ Tài chính và được cấp chứng chỉ”. Trường hợp KTVNB chưa có bằng đại học chuyên ngành kinh tế, tài chính, kế toán hoặc quản trị kinh doanh thì tối thiểu phải có trình độ trung cấp chuyên ngành kinh tế tài chính hoặc quản trị kinh doanh, đã công tác thực tế trong lĩnh vực quản lý tài chính kế toán ít nhất 5 năm, đã làm việc tại doanh


nghiệp 3 năm trở lên nhưng không thấp hơn trình độ chuyên môn nghiệp vụ của kế toán trưởng doanh nghiệp đó. Ở Việt Nam hiện nay chưa có quy định chính thức về tiêu chuẩn đối với kiểm toán viên nội bộ ngân hàng. Tại các khoản 1, 2, 3 điều 13 của Thông tư 44/2011-NHNN quy định về tiêu chuẩn đối với kiểm toán nội bộ ngân hàng như sau:

- Có phẩm chất trung thực, ý thức chấp hành pháp luật;

- Có kiến thức, hiểu biết chung về pháp luật, quản trị kinh doanh và các nghiệp vụ ngân hàng;

- Có bằng đại học trở lên các chuyên ngành phù hợp, có kiến thức đầy đủ và luôn cập nhật về các lĩnh vực được giao khi thực hiện kiểm toán nội bộ;

- Có khả năng thu thập, phân tích, đánh giá và tổng hợp thông tin;

- Có kiến thức, kỹ năng về kiểm toán nội bộ;

- Có kinh nghiệm làm việc trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng hoặc công tác kiểm toán tối thiểu là 3 năm;

- Tuân thủ quy tắc đạo đức nghề nghiệp kiểm toán theo quy định;

- Các tiêu chuẩn khác do ngân hàng quy định.

Đối với Trưởng kiểm toán nội bộ và phó trưởng kiểm toán nội bộ thì phải có bằng đại học chuyên ngành ngân hàng, tài chính, kế toán, kiểm toán; kinh nghiệm làm việc trong lĩnh vực tài chính ngân hàng tối thiểu là 5 năm. Tại một số NHTM NN còn nêu rõ vị trí trưởng/ hoặc phó trưởng KTNB; hoặc trưởng/phó trưởng KTNB khu vực phải có năng lực chuyên môn, khả năng quản lý, điều hành, có tín nhiệm cao trên công tác được giao. Ngoài ra người đứng đầu bộ phận kiểm toán nội bộ còn phải đảm bảo có kỹ năng lãnh đạo, chỉ đạo, định hướng; kỹ năng quản lý và khích lệ nhân viên; kỹ năng trao đổi thông tin, thuyết trình và tổng hợp viết báo cáo. Qua thực tế khảo sát (Phụ lục 2.1: Mẫu khảo sát kiểm toán nội bộ NHTMNN; và Phụ lục 2.2: Tổng hợp kết quả khảo sát) của NCS rút ra một số nội dung như sau:

Số lượng kiểm toán viên nội bộ ở các NHTMNN tính đến năm 2012 bình quân có khoảng từ 15- 60 người tại Trụ sở chính; tại các khu vực và văn phòng


đại diện số lượng có ít hơn tùy vào quy mô của từng ngân hàng. Số lượng kiểm toán viên nội bộ hầu như không có sự biến động đáng kể qua các năm do nhu cầu về nguồn nhân lực này ít có sự thay đổi. Ví dụ tại Vietinbank hiện nay có khoảng gần 400 người. Trong năm 2012 Vietinbank đã rà soát và thay đổi cơ bản nhân sự của các phòng KTNB khu vực bằng nguồn lực có kinh nghiệm từ các Chi nhánh và tuyển dụng bên ngoài; tại VCB ở Trụ sở chính có khoảng 30 người; các khu vực miền Nam và miền Trung khoảng 20-30 người; Tại BIDV ở Trụ sở chính có khoảng 30 người, còn tại Agribank tại Trụ sở chính có khoảng từ 40-60 người và toàn hệ thống khoảng gần 700 người. Số lượng kiểm toán viên nội bộ hiện tại về cơ bản là đáp ứng yêu cầu công việc hiện tại.

Bằng cấp: 100% người tốt nghiệp đại học và trên 50% tốt nghiệp sau đại học chuyên ngành tài chính, kế toán, kiểm toán, ngân hàng và chuyên ngành khác ở trong và ngoài nước. Số kiểm toán viên nội bộ có chứng chỉ hành nghề kiểm toán là khá ít: dưới 10% (chủ yếu là chứng chỉ kiểm toán viên độc lập). Ở Việt Nam, chứng chỉ kiểm toán viên nội bộ là hầu như chưa có và rất ít kiểm toán viên nội bộ từng biết đến chứng chỉ kiểm toán viên nội bộ (không có Hiệp hội kiểm toán viên nội bộ nói chung và về lĩnh vực ngân hàng nói riêng). Các chứng chỉ khác về nghiệp vụ ngân hàng, xây dựng cơ bản,… chiếm khoảng 30% số kiểm toán viên nội bộ được hỏi và phần lớn do các trung tâm hoặc trường đào tạo của ngân hàng cung cấp.

Yêu cầu về tính độc lập trong quá trình kiểm toán: Trên thực tế, các kiểm toán viên nội bộ đều được Ban điều hành ký hợp đồng lao động. Kiểm toán viên nội bộ tại Trụ sở chính, cũng như kiểm toán nội bộ tại các khu vực và văn phòng đại diện đều do Hội đồng quản trị/Hội đồng thành viên chịu trách nhiệm trả lương, cũng như khen thưởng hoặc kỷ luật nếu có; kiểm toán nội bộ dù ở văn phòng đại diện hay ở các khu vực thì đều là người của Trụ sở chính và không can thiệp vào công việc nội bộ của khu vực hoặc văn phòng đại diện tại đó. Việc bổ nhiệm, hoặc miễn nhiệm các chức danh Trưởng/ Phó trưởng kiểm toán nội bộ


hoặc bộ phận kiểm toán nội bộ khu vực và kiểm toán viên nội bộ phải được Hội đồng quản trị quyết định. Các kiểm toán viên nội bộ được tạo điều kiện tốt nhất để tăng tính độc lập, không bị can thiệp cả về mặt chuyên môn, cũng như kinh tế và tình cảm đối với các đơn vị/ bộ phận/được kiểm toán. Ngoài ra, các kiểm toán viên nội bộ cũng được yêu cầu phải khách quan trong công việc, bao gồm đức tính trung thực, công bằng, không định kiến.

Yêu cầu về kỹ năng và khả năng đối với công việc kiểm toán nội bộ ngân hàng gồm các tiêu chí cụ thể được đưa ra để khảo sát đối với các kiểm toán viên nội bộ tại các NHTMNN như sau:

-Hiểu về chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp

Tại điều 22 của thông tư 44/2011-NHNN quy định về quy tắc đạo đức nghề nghiệp của kiểm toán nội bộ bao gồm: tính trung thực, khách quan, bảo mật, trách nhiệm, thận trọng. Tại điều 22, mục 3 cũng yêu cầu các Ngân hàng thương mại phải có biện pháp theo dõi, đánh giá, quản lý nhằm đảm bảo các kiểm toán viên nội bộ tuân thủ quy tắc đạo đức nghề nghiệp. Thực tế, 5 NHTMNN đã triển khai nội dung này vào phần quy chế nội bộ về kiểm toán nội bộ. Nhưng có rất ít (dưới 10%) ngân hàng có biện pháp cụ thể để theo dõi, đánh giá, quản lý kiểm toán viên nội bộ tuân thủ đạo đức nghề nghiệp; chủ yếu là thông qua bản tự đánh giá cá nhân, bản nhận xét của trưởng kiểm toán nội bộ vào các kỳ tổng kết cuối năm. Cũng chưa có các tiêu chí cụ thể để đánh giá các mức độ tuân thủ đạo đức nghề nghiệp đối với từng cấp độ kiểm toán viên nội bộ. Điều này cũng phản ánh lại một thực tế khách quan rằng ngay tại chính các cơ sở đào tạo nguồn nhân lực kiểm toán nói chung cũng chưa có một môn học/ khóa học chính thức về chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp kiểm toán nội bộ ngân hàng ở Việt Nam.

-Hiểu về chuẩn mực nghề nghiệp

Đây là nội dung mà các kiểm toán viên nội bộ các cấp phải thực hành thường xuyên, do vậy trên 90% kiểm toán viên đều có khả năng hiểu (và vận dụng) được công việc kiểm toán nội bộ ngân hàng, và các yêu cầu trong từng


giai đoạn của cuộc kiểm toán (ngoại trừ một số ít các kiểm toán nội bộ mới vào nghề hoặc đang thử việc).

-Hiểu về chuẩn mực chuyên môn

Tương tự như chuẩn mực nghề nghiệp, hầu hết các kiểm toán viên nội bộ được tuyển chọn đều phải có bằng đại học và sau đại học các chuyên ngành có liên quan tới kiểm toán ngân hàng, đặc biệt là kiến thức về tài chính, kế toán, pháp luật, ngân hàng. Tuy nhiên, để đáp ứng đặc thù công việc kiểm toán nội bộ Ngân hàng thương mại, thì chỉ có khoảng 50% số kiểm toán viên nội bộ được đào tạo thêm về quản trị, rủi ro và kiểm soát; lý thuyết tổ chức và hành vi (chủ yếu là tự đào tạo hoặc tham gia các khóa học của ngân hàng tổ chức).

-Các kỹ năng và công cụ hỗ trợ cho công việc kiểm toán nội bộ

Về đào tạo kỹ năng của kiểm toán nội bộ: Thực tế các NHTMNN thường xuyên tổ chức các khoá học về giao tiếp; quản lý (chính sách, thủ tục, quy trình, nhân viên, thời gian); lãnh đạo; khả năng làm việc nhóm. Hiện nay các NHTMNN đều có các trung tâm đào tạo hoặc trường bồi dưỡng cán bộ để thực hiện nhiệm vụ đào tạo nguồn nhân lực cho ngân hàng.

Về công cụ hỗ trợ kiểm toán nội bộ: Hiện nay các ngân hàng chưa xây dựng được phần mềm kiểm toán nội bộ ngân hàng mà chủ yếu thực hiện dựa vào quy chế nội bộ về kiểm toán nội bộ của ngân hàng mình (theo hướng dẫn của NHNN), có ngân hàng còn chưa xây dựng xong quy chế nội bộ về tổ chức bộ máy và quy trình kiểm toán nội bộ theo tinh thần thông tư 44/2011-NHNN. Các kiểm toán viên nội bộ sử dụng chủ yếu các công cụ như: phân tích hoạt động kinh doanh; kỹ thuật đánh giá rủi ro và kiểm soát; kỹ năng thu thập và phân tích thông tin; dự báo, bảng điểm cân bằng; (tính ưu tiên theo thứ tự giảm dần). Tại Vietinbank thời gian qua đã nâng cấp và hoàn thiện chương trình Giám sát nội bộ từ xa, tăng thêm chức năng và các chỉ tiêu giám sát hệ thống. Tại VCB tiếp tục triển khai nhiều dự án về công nghệ thông tin để hỗ trợ cho công việc kiểm toán nội bộ như: hệ thống core-banking, hệ thống quản trị và phân tích dữ liệu, triển khai dự án hệ thống hóa chu trình công việc (workflow)…


2.3. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG QUÁ TRÌNH VÀ TỔ CHỨC BỘ MÁY KIỂM TOÁN NỘI BỘ TRONG CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI NHÀ NƯỚC VIỆT NAM

2.3.1. Kết quả đạt được

Nhằm triển khai chủ trương tái cấu trúc nền kinh tế của Chính phủ, trong đó, tái cấu trúc hệ thống ngân hàng là một trong ba trụ cột chính theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 BCHTW Đảng khóa XI (tháng 10/2011), hệ thống Ngân hàng thương mại Việt Nam đã có những cải cách về thể chế, mô hình tổ chức và nâng cao năng lực tài chính. Luật các tổ chức tín dụng 2010 và Thông tư 44/2011-NHNN ra đời đã tạo được hành lang pháp lý cơ bản đối với tổ chức và hoạt động của các Ngân hàng thương mại Việt Nam nói chung và hoạt động kiểm toán nội bộ nói riêng; nhằm từng bước nâng cao năng lực quản trị của hệ thống ngân hàng và dần tiếp cận với những chuẩn mực và thông lệ quốc tế. Việc thực hiện kiểm toán nội bộ dựa trên Luật các tổ chức tín dụng sửa đổi 2010 và Thông tư 44 đã giúp các NHTMNN đạt được một số kết quả như sau:

2.3.1.1. Về tổ chức quá trình kiểm toán nội bộ

Một là, các NHTMNN đã khẩn trương hoàn thiện việc xây dựng quy chế, quy trình về kiểm toán nội bộ thông qua việc ban hành Chính sách kiểm toán nội bộ hoặc/ và ban hành mới Sổ tay kiểm toán nội bộ theo tinh thần TT44. Theo đó xây dựng mới quy trình kiểm toán nội bộ và hướng dẫn các bước công việc cụ thể về từng mặt nghiệp vụ, phương pháp kiểm toán nội bộ nhằm đảm bảo sự chuẩn hóa và thống nhất trong công tác kiểm toán nội bộ, phù hợp với hoạt động của từng NHTMNN trong giai đoạn hiện nay cũng như tiếp cận với các thông lệ thực hành quản trị tốt nhất đang được áp dụng cho hệ thống ngân hàng hiện đại trên thế giới. Đây chính là tiền đề quan trọng giúp cho bộ phận kiểm toán nội bộ tiến hành công việc kiểm toán theo đúng mục tiêu, yêu cầu của NHNN đặt ra.

Hai là, đa dạng hoá nội dung kiểm toán nội bộ. Các lĩnh vực kiểm toán nội bộ được thay đổi thường xuyên để phù hợp với yêu cầu thực tế tại từng NHTMNN. Nội dung kiểm toán thường tập trung vào những vấn đề nổi cộm dễ


phát sinh gian lận, sai sót trọng yếu có thể ảnh hưởng tới lợi nhuận trong kỳ của đơn vị được kiểm toán như hoạt động tín dụng, nợ xấu, xây dựng cơ bản, kinh doanh vốn và ngoại tệ, đánh giá mức độ tuân thủ quy chế, chính sách nội bộ …, nhờ đó mà các kiến nghị kiểm toán đưa ra thường bám sátvới tình hình của đơn vị. Có 3 trong số 5 NHTMN đã thực hiện nội dung kiểm toán theo các chuyên đề lớn, từ đó góp phần giải quyết những vướng mắc tại từng chi nhánh, nâng cao hiệu quả hoạt động của đơn vị.

Ba là, với tiềm lực mạnh về vốn và công nghệ, các NHTMNN đã từng bước hình thành hệ thống thông tin quản MIS và xây dựng hệ thống quản trị rủi ro phù hợp với thông lệ phổ biến trên thế giới, thông qua sự hỗ trợ của Ngân hàng thế giới với dự án Hiện đại hóa ngân hàng và Hỗ trợ liên kết kỹ thuật (TA1, TA2). Việc nâng cấp hệ thống thông tin tập trung nhằm đảm bảo quá trình kiểm soát thông tin được tập trung về một đầu mối tại Trụ sở chính, nhờ đó việc nhận dạng, phân tích và đánh giá rủi ro sẽ được thực hiện kịp thời, chính xác. Đây là cơ sở giúp kiểm toán nội bộ triển khai phương pháp và quy trình kiểm toán dựa vào rủi ro một cách hiệu quả.

2.3.1.2. Về tổ chức bộ máy kiểm toán nội bộ

Một là, kiện toàn mô hình tổ chức và hoạt động của bộ phận kiểm toán nội bộ, đảm bảo tuân thủ quy định của Thông tư 44/2011/TT-NHNN ngày 29/12/2011 của Thống đốc NHNN quy định về hệ thống KSNB và kiểm toán nội bộ của các ngân hàng; từ đó phân biệt rõ chức năng kiểm soát nội bộ và kiểm toán nội bộ trong các NHTMNN; giảm thiểu được sự chồng chéo trong công việc. Giúp tăng nhận thức của người làm công việc kiểm soát, kiểm toán nội bộ và đơn vị được kiểm toán trong phối hợp công việc để hoàn thành nhiệm vụ.

Hai là, trong chính sách kiểm toán nội bộ, sổ tay kiểm toán đã quy định cụ thể nhiệm vụ, trách nhiệm, quyền hạn của kiểm toán nội bộ từ Trụ sở chính, VPDD đến các khu vực; phân định cụ thể phạm vi, lĩnh vực hoạt động kiểm


toán nội bộ từng cấp; làm rõ các tiêu chuẩn/quy định về quyền và trách nhiệm của kiểm toán viên nội bộ ngân hàng (đối với từng chức danh); đặt ra các yêu cầu về kỹ năng, khả năng của kiểm toán nội bộ; tuân thủ đạo đức nghề nghiệp và các chuẩn mực nghề nghiệp, chuyên môn của kiểm toán nội bộ ngân hàng; cũng như từng bước xây dựng văn hóa nghề nghiệp trong hệ thống NHTMNN Việt Nam. Quá trình xây dựng về cơ cấu tổ chức và nguồn nhân lực kiểm toán đảm bảo dựa trên những nguyên tắc và thông lệ phổ biến về hoạt động giám sát ngân hàng mà Uỷ ban Basel tư vấn, hướng tới mô hình quản trị rủi ro tiên tiến hiện nay.

2.3.2. Hạn chế

Ngoài những kết quả đạt được đã nêu trên, tổ chức kiểm toán nội bộ trong các NHTMNN Việt Nam hiện nay vẫn còn tồn tại những hạn chế như sau:

2.3.2.1. Hạn chế về tổ chức quá trình kiểm toán nội bộ

Thứ nhất, về tổ chức nội dung kiểm toán nội bộ: Hiện nay kiểm toán nội bộ đang chủ yếu tập trung kiểm tra mức độ tuân thủ nội quy, quy chế nội bộ của ngân hàng; chính sách, chế độ của NHNN; đồng thời kiểm tra việc chấp hành chế độ tài chính, kế toán ngân hàng, hoạt động tín dụng và đầu tư xây dựng cơ bản. Ngoài ra cũng thực hiện kiểm toán báo cáo tài chính đối với các lĩnh vực cụ thể như: hoạt động kế toán, tín dụng…Vậy dường như kiểm toán nội bộ đang thực hiện lại công việc của các bộ phận tác nghiệp được kiểm toán trong khi các bộ phận này luôn có chức năng tự kiểm tra; lẫn công việc kiểm soát nội bộ của Bộ phận kiểm tra/giám sát tuân thủ. Rõ ràng, sự khác biệt trong công việc kiểm toán nội bộ là gì? Chính các nhân viên kiểm toán nội bộ/hoặc kiểm soát nội bộ cũng khó trả lời bởi các bộ phận này vẫn chưa thực hiện được hết các chức năng kiểm toán, đặc biệt là chức năng đảm bảo tư vấn theo yêu cầu của lãnh đạo ngân hàng. Mặt khác, nội dung kiểm toán hoạt động ít được thực hiện, nhất là kiểm toán tính đầy đủ, hiệu lực và hiệu quả của HTKSNB theo quy định của Thông tư 44. Điều này càng làm giảm giá trị của chức năng


tư vấn, dẫn tới việc tạo ra giá trị gia tăng cho ngân hàng từ hoạt động kiểm toán nội bộ cũng chưa thấy rõ. Bên cạnh đó nội dung kiểm toán theo các chuyên đề lớn cũng ít được thực hiện, do sự hạn chế về nguồn nhân lực, thời gian và chi phí kiểm toán.

Thứ hai, về việc xây dựng và vận dụng phương pháp kiểm toán: KTNB đã bước đầu sử dụng phương pháp dựa vào rủi ro nhưng chủ yếu dừng lại ở mức thống kê khả năng sai phạm trong từng lĩnh vực theo kinh nghiệm, mà chưa có quy trình hướng dẫn về cách thực hiện (điều này đã ghi rõ trong Thông tư 44, nhưng chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể). Chưa làm rõ được mối quan hệ giữa phương pháp dựa vào rủi ro với phương pháp kiểm toán tuân thủ và phương pháp kiểm toán cơ bản.

Thứ ba, về việc xây dựng và vận dụng quy trình kiểm toán nội bộ:

Các NHTMNN chưa xây dựng được phần mềm kiểm toán nội bộ, do đó các công việc trong từng giai đoạn kiểm toán chủ yếu được thực hiện thủ công với sự hỗ trợ của các phần mềm văn phòng trên máy tính. Quy trình kiểm toán vẫn được thiết kế theo phương pháp tiếp cận hệ thống và kiểm toán theo mô hình đảm bảo (xuất phát từ các hướng dẫn có sẵn về cách đánh giá rủi ro kiểm toán, kiểm soát nội bộ, cơ sở dẫn liệu, chương trình kiểm toán…) để thu thập bằng chứng. Các nội dung này chưa thực sự phù hợp với lý luận về cách thức tiếp cận cuộc kiểm toán dựa vào rủi ro (xuất phát từ rủi ro thực tế của chi nhánh để xây dựng và đánh giá rủi ro kiểm toán, kiểm soát nội bộ, hay chương trình kiểm toán).

Việc lập kế hoạch kiểm toán mới chỉ thực hiện một chiều, chủ yếu từ bộ phận kiểm toán nội bộ của Trụ sở chính xây dựng và trình Ban lãnh đạo phê duyệt, mà không có sự trao đổi ý kiến với đơn vị sẽ được kiểm toán (bao gồm cả kế hoạch kiểm toán năm và kế hoạch từng cuộc kiểm toán). Điều này có thể dẫn tới sự chủ quan trong khâu lập kế hoạch do cán bộ kiểm toán ở Trụ sở chính chưa nắm rõ về tình hình hoạt động thực tế tại các chi nhánh hoặc sử


dụng hệ thống báo cáo thông tin chưa chuẩn xác. Mặt khác, việc xác định mức trọng yếu và chọn mẫu kiểm toán chủ yếu vẫn dựa trên kinh nghiệm của kiểm toán viên do chưa có phần mềm chọn mẫu hoặc đánh giá trọng yếu. Vì vậy tính đầy đủ và thích hợp của các bằng chứng kiểm toán thu thập được có thể bị ảnh hưởng. Đó là lý do vì sao công việc kiểm toán nội bộ vẫn mang màu sắc của hoạt động kiểm tra hoặc kiểm soát.

Trong giai đoạn thực hành kiểm toán: kiểm toán nội bộ chưa phối hợp đa dạng các kỹ thuật thu thập bằng chứng mà mới chủ yếu dừng lại ở việc quan sát, kiểm tra tài liệu, phân tích, hoặc phỏng vấn. Kỹ thuật kiểm kê ít được sử dụng do bị giới hạn về chi phí, thời gian kiểm toán. Nội dung các phương pháp được vận dụng chưa rõ nét, ví dụ kiểm toán nội bộ chủ yếu tìm hiểu về mặt thiết kế của các hoạt động kiểm soát nội bộ tại chi nhánh, mà chưa đánh giá về mặt vận hành (kiểm tra tính hiệu quả của các quy chế kiểm soát nội bộ).

Trong giai đoạn kết thúc kiểm toán: báo cáo kiểm toán nội bộ mới chỉ dừng lại ở việc phát hiện các sai phạm trong quá trình quản lý, kinh doanh của chi nhánh, từ đó đưa ra các khuyến nghị để sửa chữa sai phạm. Báo cáo chưa làm rõ chức năng tư vấn của kiểm toán nội bộ, đặc biệt trong việc tạo ra giá trị gia tăng cho ban lãnh đạo ngân hàng. Hạn chế này đã làm giảm vị thế của bộ phận kiểm toán nội bộ ngân hàng, ảnh hưởng tới tính hiệu quả của cuộc kiểm toán.

2.3.2.2. Hạn chế về tổ chức bộ máy kiểm toán nội bộ

Thứ nhất, cơ cấu tổ chức kiểm toán nội bộ các NHTMNN mới chỉ được xây dựng nhằm đáp ứng yêu cầu của Thông tư 44, trong khi đó việc vận hành các bộ phận trong mô hình tổ chức sao cho hiệu quả vẫn chưa được đánh giá do thiếu thời gian trải nghiệm thực tế (các mô hình kiểm toán nội bộ mới chỉ được xây dựng và hoạt động trong khoảng 1-2 năm trở lại đây).

Thứ hai, vị thế của bộ phận kiểm toán nội bộ vẫn chưa được coi trọng đúng mức so với vị trí đã xây dựng trong mô hình tổ chức của các NHTMNN.

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 21/04/2022