1.2.1.2. Khám phá các nhân tố ảnh hưởng đến tính hiệu lực của KTNB
Tìm kiếm và đo lường mức độ ảnh hưởng của các nhân tố đến tính hiệu lực của KTNB là một nội dung lớn và hấp dẫn của lĩnh vực này. Mục đích của các nghiên cứu này nhằm chỉ ra những nhân tố nào có sức ảnh hưởng lớn đến tính hiệu lực của KTNB để các nhà quản lý hay người hành nghề có những điều chỉnh hành vi hay tìm cách khai thác các nhân tố này để nâng cao tính hiệu lực của KTNB. Dưới đây là một số nghiên cứu cụ thể được lựa chọn.
Dựa trên một nghiên cứu điển hình về một cơ sở giáo dục đại học khu vực công lớn ở Ethiopia, Mihret & Yismaw (2007) đã xem xét các nhân tố: chất lượng kiểm toán nội bộ, sự hỗ trợ của nhà quản lý, cách thiết lập tổ chức, các thuộc tính của đối tượng được kiểm toán và mối quan hệ giữa các nhân tố này đến hiệu lực kiểm toán nội bộ như thế nào. Các phát hiện của nghiên cứu nhấn mạnh rằng hiệu lực của kiểm toán nội bộ bị ảnh hưởng mạnh mẽ bởi chất lượng kiểm toán nội bộ và sự hỗ trợ của nhà quản lý, trong khi cách thiết lập tổ chức và các thuộc tính của bên được kiểm toán không có tác động mạnh mẽ đến tính hiệu lực.
Nghiên cứu khám phá của Cohen & Sayag (2010) nhằm xây dựng một khái niệm về tính hiệu lực của kiểm toán nội bộ trong các tổ chức. Họ đã phát triển một thang đo để đo lường hiệu lực của kiểm toán nội bộ và một mô hình về các nhân tố ảnh hưởng. Một trăm lẻ tám tổ chức của Israel sử dụng kiểm toán nội bộ đã tham gia vào nghiên cứu (tỷ lệ phản hồi 37%). Dữ liệu về tính hiệu lực của kiểm toán nội bộ được thu thập từ những người quản lý của tổ chức và dữ liệu về các nhân tố ảnh hưởng từ kiểm toán viên nội bộ của họ. Các phát hiện cho thấy các đặc tính tâm lý tốt cho thang đo được phát triển trong nghiên cứu này. Các phân tích tương quan và hồi quy cho thấy sự hỗ trợ từ lãnh đạo cao nhất là nhân tố chính ảnh hưởng đến hiệu lực của kiểm toán nội bộ, với một số tác động cũng được tìm thấy đối với tính độc lập về mặt tổ chức của kiểm toán nội bộ. Tác động của các nhân tố dự đoán là nhất quán giữa khu vực công và khu vực tư nhân. Mô hình nghiên cứu đã giải thích một lượng lớn phương sai về hiệu quả kiểm toán nội bộ. Hailemariam (2014) đã nghiên cứu các nhân tố quyết định hiệu lực kiểm toán nội bộ trong các văn phòng khu vực công Ethiopia được lựa chọn. Cuộc điều tra đã được tập trung vào 15 văn phòng khu vực công được lựa chọn có chủ đích, dự kiến sẽ đại diện cho tất cả các lĩnh vực khác nhau. Các nhóm quản lý và kiểm toán viên nội bộ của văn phòng khu vực công được lựa chọn là nguồn cung cấp dữ liệu cần thiết cho nghiên cứu thông qua các bảng câu hỏi được xây dựng. Ngoài ra, phát hiện của nghiên cứu này là chỉ ra các ảnh hưởng liên quan trực tiếp giữa nhận thức của ban lãnh đạo, sự hỗ trợ của ban lãnh đạo, tính độc lập về tổ chức của kiểm
toán viên nội bộ, đội ngũ kiểm toán viên nội bộ có năng lực và sự hiện diện của điều lệ kiểm toán nội bộ đã được phê duyệt với tính hiệu lực của kiểm toán nội bộ của quản lý khu vực công. Theo kết quả hồi quy, Sự hỗ trợ từ nhà quản lý, Sự tồn tại của đội ngũ nhân viên kiểm toán nội bộ đầy đủ và có năng lực, và sự sẵn có của Điều lệ kiểm toán nội bộ được phê duyệt đã góp phần tích cực cho hiệu lực của kiểm toán nội bộ trong khu vực công. Hai biến còn lại: nhận thức của ban quản lý đối với lợi ích từ kiểm toán nội bộ và tổ chức độc lập với kiểm toán viên nội bộ có quan hệ thuận chiều với hiệu lực kiểm toán nội bộ nhưng đóng góp của họ đối với hiệu lực kiểm toán nội bộ là không có ý nghĩa thống kê. Tất cả năm biến độc lập này đã giải thích được 55,10% biến thiên của biến phụ thuộc - tính hiệu lực kiểm toán nội bộ trong các cơ quan khu vực công.
Mustika (2015) đã kiểm tra các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu lực của kiểm toán nội bộ, bao gồm năng lực của kiểm toán viên nội bộ, tính độc lập của kiểm toán viên nội bộ, sự hỗ trợ của bên được kiểm toán đối với hoạt động kiểm toán nội bộ và mối quan hệ của kiểm toán viên nội bộ và kiểm toán bên ngoài. Sử dụng cơ quan kiểm toán nội bộ ở tỉnh Java, Indonesia, nhà nghiên cứu nhận thấy rằng hiệu lực kiểm toán nội bộ có thể đạt được thông qua việc nâng cao năng lực kiểm toán nội bộ, tính độc lập và mối quan hệ bền chặt giữa kiểm toán viên nội bộ và bên ngoài. Tuy nhiên, nghiên cứu này cho thấy rằng sự hỗ trợ của bên được kiểm toán không ảnh hưởng đến hiệu lực kiểm toán nội bộ.
Dellai & Omri (2016) đã kiểm tra các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu lực của kiểm toán nội bộ trong bối cảnh Tunisia. Dữ liệu được thu thập từ các câu trả lời cho một bảng câu hỏi gửi cho Trưởng bộ phận KTNB của 148 tổ chức Tunisia. Phân tích hồi quy bội kiểm tra mối liên hệ giữa tính hiệu lực của kiểm toán nội bộ và sáu nhân tố chính. Kết quả cho thấy hiệu lực của kiểm toán nội bộ bị ảnh hưởng bởi: tính độc lập của kiểm toán nội bộ, tính khách quan của kiểm toán viên nội bộ, sự hỗ trợ của ban lãnh đạo đối với kiểm toán nội bộ, việc sử dụng chức năng kiểm toán nội bộ làm cơ sở đào tạo quản lý và lĩnh vực của tổ chức. Nghiên cứu đã cung cấp thông tin hữu ích cho các học viên và các học giả quan tâm đến việc xác định các nhân tố quyết định hiệu lực của kiểm toán nội bộ ở các nước đang phát triển.
Chevers, Lawrence, Laidlaw & Nicholson (2016) đã điều tra các nhân tố ảnh hưởng đến tính hiệu lực của chức năng kiểm toán nội bộ trong ngân hàng thương mại ở Jamaica. Nghiên cứu cho thấy chất lượng của cuộc kiểm toán, tính độc lập của tổ chức, trình độ chuyên môn và sự hỗ trợ của ban lãnh đạo có tác động đáng kể đến hiệu lực của kiểm toán nội bộ. Họ kết luận rằng điều cấp thiết là các bên liên quan và các
Có thể bạn quan tâm!
- Các nhân tố ảnh hưởng đến tính hiệu lực của kiểm toán nội bộ tại các ngân hàng thương mại Việt Nam - 1
- Các nhân tố ảnh hưởng đến tính hiệu lực của kiểm toán nội bộ tại các ngân hàng thương mại Việt Nam - 2
- Sự Hỗ Trợ Của Các Nhà Quản Lý Đến Ktnb
- Cơ Sở Lý Thuyết Và Tổng Quan Nghiên Cứu Về Các Nhân Tố Ảnh Hưởng
- Vai Trò Của Kiểm Toán Nội Bộ Trong Quản Lý Rủi Ro
Xem toàn bộ 208 trang tài liệu này.
nhà hoạch định chính sách phải hiểu vai trò quan trọng của kiểm toán nội bộ đối với khả năng tồn tại và sức khỏe tài chính của bất kỳ tổ chức tài chính nào.
Lenz, Sarens và Hoos (2017) đã kiểm tra mối quan hệ giữa Trưởng bộ phận KTNB (CAEs) và Quản lý cấp cao (SM) và mối quan hệ của nó với hiệu lực của kiểm toán nội bộ. Nghiên cứu cho thấy sự khác biệt giữa tính hiệu lực mạnh và yếu của chức năng KTNB và đưa ra các giải thích bằng cách nghiên cứu các nhân tố thuộc về tổ chức, cá nhân và giữa các cá nhân trong bối cảnh quản trị doanh nghiệp của Đức. Kết quả cho thấy mô hình tương tác giữa Trưởng bộ phận KTNB (CAEs) và Quản lý cấp cao (SM) là nhân tố quyết định chính đến tính hiệu lực của KTNB. Nghiên cứu này nhấn mạnh sự nguy hiểm của việc coi sự hài lòng của khách hàng là thước đo chính về hiệu lực của KTNB, vì trong thực tế, kỳ vọng có thể thay đổi đáng kể và đôi khi có thể được yêu cầu rất nhẹ. Hơn nữa, CAE thường điều chỉnh theo kỳ vọng, tăng và giảm. CAE cũng có thể thúc đẩy chương trình nghị sự. Ở cấp độ tổ chức, các phát hiện cho thấy rằng các công ty mà được coi là "nhà vô địch tiềm ẩn" lại có nhu cầu và hưởng lợi từ việc triển khai KTNB hiệu quả.
Bednarek (2017) đã tìm hiểu các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu lực kiểm toán nội bộ. Dựa trên cuộc khảo sát từ 342 tổ chức ở Ba Lan, người ta thấy rằng hiệu quả của kiểm toán nội bộ bị ảnh hưởng bởi: 1) đặc điểm của kiểm toán nội bộ, 2) hoạt động kiểm toán và 3) các mối quan hệ giữa các tổ chức. Tính hiệu lực sẽ tăng lên khi tuổi của kiểm toán nội bộ ngày càng lớn, việc thực hiện các cuộc kiểm toán được giám sát thường xuyên, kết quả đo lường việc thực hiện kiểm toán và tự đánh giá được sử dụng để đưa ra các thay đổi, ủy ban kiểm toán chỉ ra những rủi ro đáng kể và đặt ra các ưu tiên cho hàng năm và chiến lược kế hoạch kiểm toán và kiểm toán được ủy quyền không vượt quá 20% công việc của kiểm toán nội bộ.
Rudhani, Vokshi & Hashani (2017) khẳng định rằng kể từ khi kiểm toán nội bộ có một tầm quan trọng trong việc ngăn ngừa, tư vấn và phát hiện các trường hợp sử dụng vốn sai mục đích, người ta đã nghĩ đến việc phân tích các nhân tố góp phần tăng hiệu lực của kiểm toán nội bộ trong khu vực công, giúp đưa ra cơ chế quản trị nguồn tài chính công đúng đắn và minh bạch hơn. Do đó họ đã thực hiện một nghiên cứu mối quan hệ giữa hiệu lực của KTNB và các nhân tố ảnh hưởng. Dữ liệu cho nghiên cứu được thu thập thông qua một bảng câu hỏi trực tuyến và các bản phát tay trực tiếp. Kết quả phân tích thực nghiệm đã chứng minh rằng hiệu lực của KTNB có mối quan hệ tỷ lệ thuận với chất lượng kiểm toán nội bộ, năng lực của đội ngũ kiểm toán nội bộ, tính độc lập của kiểm toán nội bộ, cũng như với sự hỗ trợ của kiểm toán nội bộ từ cấp quản lý. Hơn nữa, các tác giả khẳng định rằng chất lượng kiểm toán là nhân tố cơ bản tạo
nên hiệu lực của kiểm toán nội bộ vì nó là một trong những nhân tố có ảnh hưởng nhất trong mẫu.
Nguyễn Bảo Huyền (2021) hông qua khảo sát tại các NHTM Việt Nam chỉ ra các ngân hàng hiện nay vẫn chỉ tập trung chủ yếu vào hoạt động kiểm toán BCTC và kiểm toán tuân thủ, chưa tập trung nhiều nguồn lực vào kiểm toán hoạt động, mặc dù về bản chất thì đây mới là nội dung chính yếu, trọng tâm cần hướng đến của kiểm toán nội bộ. Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy hầu hết các NHTM chưa thực sự quan tâm tới các nhân tố có thể dẫn tới rủi ro như: Có những thay đổi trong môi trường hoạt động, sự xuất hiện nhân sự mới, đặc biệt là nhân sự cấp cao, áp dụng công nghệ mới và mô hình kinh doanh mới, thay đổi chính sách kế toán. Trong giai đoạn thực hiện kiểm toán: nhiều ngân hàng chưa có phần mềm chuyên dụng cho KTNB, thực hiện kiểm toán riêng lẻ từng giao dịch, chưa phân tích hệ thống để đánh giá tính hiệu lực, hiệu quả của hệ thống KSNB, phạm vi KTNB tập trung vào tín dụng, kế toán và nhân sự. Giai đoạn giám sát sau kiểm toán thì các kiến nghị của KTNB đưa ra được đánh giá cao, song KTNB cũng chưa thực hiện công tác “xác nhận sự hài lòng khi thực hiện công việc” với các đối tượng có liên quan để đảm bảo chất lượng hoạt động KTNB. Bên cạnh xem xét thực trạng tính hiệu quả của kiểm toán nội bộ trong các NHTM, tác giả cũng đề cập tới các nhân tố ảnh hưởng đến tính hiệu quả của KTNB. Tuy đã liệt kê ra một số nhân tố ảnh hưởng như: Tính độc lập, khách quan của kiểm toán viên nội bộ, năng lực của kiểm toán viên nội bộ, sự hỗ trợ của nhà quản lý, phạm vi hoạt động của kiểm toán nội bộ, sự hài lòng về lương/thưởng của kiểm toán viên nội bộ, song tác giả chưa xây dựng mô hình kiểm định cũng như đánh giá mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố đến tính hiệu quả của kiểm toán nội bộ.
Trần Phương Thùy (2019) chỉ ra các tiêu chí đánh giá hiệu quả, hiệu lực của kiểm toán nội bộ trong ngân hàng thương mại gồm có: (i) KTNB đã có được sự độc lập với Ban Điều hành hay chưa và sự khách quan của kiểm toán viên đã được bảo vệ đúng cách bằng cách trực tiếp truy cập và báo cáo với cơ quan quản lý; (ii) KTNB đã được cung cấp đầy đủ các nguồn lực (về nhân sự, năng lực, kỹ năng và chuyên môn) để thực hiện các nhiệm vụ hay chưa? Kế hoạch hằng năm có đáp ứng đầy đủ tất cả các lĩnh vực cần thiết, bao gồm quản lý rủi ro đặc biệt trong việc tuân thủ quy trình đánh giá an toàn vốn nội bộ (ICAAP). Và (iii) chức năng KTNB đã được trao quyền đúng cách để thi hành một cách kịp thời với sự cam kết của hội đồng quản trị, các hành động khắc phục cần thiết để giải quyết những điểm yếu đã được phát hiện.
Nguyễn Minh Phương (2016) nghiên cứu kiểm toán nội bộ trong phạm vi cụ thể tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam. Tác giả đã giải quyết
những vấn đề lý thuyết cơ bản về KTNB trong NHTM, đồng thời trình bày quan điểm của tác giả về hoàn thiện KTNB trong NHTM, làm rõ các nhân tố ảnh hưởng tới kiểm toán nội bộ, đo lường mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố để hướng tới xây dựng hệ thống giải pháp, kiến nghị một cách phù hợp nhất. Theo đó, các nhân tố ảnh hưởng đến kiểm toán nội bộ ngân hàng thương mại được chia thành 2 phần: nhân tố khách quan, gồm: môi trường kinh tế, môi trường xã hội, môi trường pháp lý và nhân tố chủ quan bao gồm: Trách nhiệm và sự ủng hộ của ban lãnh đạo cấp cao, sự phối hợp từ đơn vị được kiểm toán, chất lượng đội ngũ kiểm toán viên nội bộ, cơ cấu tổ chức quản trị của Ngân hàng và bộ máy kiểm toán nội bộ. Tuy đã trình bày khá đầy đủ về lý luận, cũng như thực hiện khảo sát thực tiễn, xem xét và đánh giá các nhân tố ảnh hưởng đến kiểm toán nội bộ, song nghiên cứu còn bị giới hạn bởi phạm vi Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam, chưa có nhiều ý nghĩa tổng quan với loại hình ngân hàng nói chung và Ngân hàng thương mại cổ phần nói riêng.
1.2.2. Tổng quan nghiên cứu về các nhân tố ảnh hưởng đến tính hiệu lực của Kiểm toán nội bộ
1.2.2.1. Năng lực của kiểm toán viên nội bộ
Để KTNB phát huy tác dụng, kiểm toán viên nội bộ cần có năng lực phù hợp để thực hiện công việc của họ một cách thỏa đáng (Burnaby và cộng sự, 2009). Quan điểm này được hỗ trợ bởi Al-Twaijry và cộng sự (2003), các tác giả nhận định rằng các nhân sự của bộ phận kiểm toán nội bộ và người quản lý của họ đặc biệt quan trọng trong việc vận hành hiệu quả hoạt động KTNB, và rằng nếu họ không có năng lực cần thiết thì sức mạnh của kiểm toán viên nội bộ có thể bị suy giảm. Mihret và cộng sự (2010) cũng hỗ trợ quan điểm này, khẳng định rằng năng lực kỹ thuật và chương trình đào tạo liên tục được coi là thiết yếu cho KTVNB hoạt động hiệu quả. Libby and Frederick (1990) chỉ ra rằng kinh nghiệm là một thế mạnh quan trọng trong việc tăng cường hiệu quả hoạt động của KTV.
Ngoài ra, Bonner and Lewis Bang (1990) cho rằng nhiều năm kinh nghiệm được coi là một chỉ báo về hiểu biết và chuyên môn của kiểm toán viên. Kiểm toán viên nội bộ đòi hỏi nhiều năng lực để hoàn thành công việc ở các vị trí thứ bậc khác nhau trong bộ phận kiểm toán nội bộ (Burnaby và cộng sự, 2009). Năng lực đòi hỏi kiến thức và tính chuyên nghiệp mà kiểm toán viên phải có được từ giáo dục, đào tạo trong khi làm việc và những trải nghiệm. Do đó, các cơ quan chức năng đưa ra các yêu cầu bắt buộc trước khi mọi người đủ điều kiện và có quyền thực hiện kiểm toán (Paape, 2007). Engle (1999) phân loại những lợi ích quan trọng nhất mà sẽ có được từ
đội ngũ kiểm toán viên đủ năng lực, cụ thể là: (i) nhân viên có thể tiến hành kiểm toán một cách hiệu quả đóng góp thích đáng vào việc đạt được các mục tiêu tổ chức; (ii) năng lực kiểm toán nội bộ sẽ tăng xác suất mà kiểm toán viên bên ngoài sử dụng công việc của kiểm toán viên nội bộ, dẫn đến một tiềm năng giảm chi phí của kiểm toán độc lập; và (iii) kiểm toán viên nội bộ, những người đã quen thuộc với các tổ chức ở một vị trí lý tưởng có thể cung cấp thông tin đáng tin cậy về báo cáo tài chính.
Các kết quả kiểm tra hồi quy của Jayalakshmy Ramachandran và cộng sự (2012) cũng cho thấy một mối quan hệ thuận chiều và đây cũng là biến có ảnh hưởng lớn nhất (63%) đến tính hiệu lực của kiểm toán nội bộ.
Nguyễn Minh Phương (2016) đã kết luận: năng lực chuyên môn là nhân tố ảnh hưởng mạnh nhất tới hiệu quả hoạt động kiểm toán nội bộ, sau đó mới đến tính độc lập và khách quan. Nhận định tầm quan trọng của năng lực kiểm toán viên nội bộ, tác giả đã trích dẫn vụ án thất thoát 2.500 tỷ đồng tại Agribank Nam Hà Nội để đưa ra kết luận về thực trạng: kiểm toán viên được tiếp cận đầy đủ tài liệu, hồ sơ trên thực tế nhưng do trình độ, năng lực có hạn đã không phát hiện ra các sai phạm. Agribank chưa có chính sách đào tạo phù hợp với trình độ cán bộ và đặc trưng của công tác kiểm toán nội bộ là điểm yếu điển hình được chỉ ra.
1.2.2.2. Tính độc lập của kiểm toán nội bộ
Khái niệm độc lập thường được sử dụng với nghĩa là kiểm toán viên được công bằng và khách quan trong xem xét, đánh giá và không phải chịu áp lực thái quá từ bất kỳ chủ thể nào tới mức đưa ra ý kiến sai lệch. Theo thuật ngữ của Viện Kiểm toán nội bộ IIA về thực hành nghề nghiệp của kiểm toán viên nội bộ xác định tính độc lập của kiểm toán viên nội bộ như: “là tự do trước các điều kiện đe dọa tính khách quan hoặc sự hiện hữu của tính khách quan”. Các mối đe dọa đến tính khách quan như vậy phải được quản lý ở các mức độ bản thân kiểm toán viên, các bên liên quan, phòng ban chức năng và toàn bộ tổ chức. Tính độc lập của KTNB đã được xác định bởi các hiệp hội nghề nghiệp và những nhà nghiên cứu khác là rất quan trọng để thực thi được các chức năng KTNB. IIA đã ban hành một số các chuẩn mực về vấn đề độc lập trong ISPPIA (International Standard for the Professional Practice of Internal Auditing), Chuẩn mực thực hành kiểm toán nội bộ quốc tế, cụ thể hơn, chuẩn mực số 1100 về tính độc lập và khách quan.
Một hiệp hội nghiên cứu lớn đã xác minh tính độc lập của kiểm toán viên, nhưng vấn đề này chủ yếu được nghiên cứu trong bối cảnh kiểm toán độc lập (Gendron & Bedard, 2006). Nói cách khác, có rất ít nghiên cứu trước đây rất về tính
độc lập của kiểm toán viên nội bộ. Trong một số ít các nghiên cứu liên quan đến hiệu quả kiểm toán, họ đã tập trung chủ yếu vào kiểm toán độc lập và xem khả năng các kiểm toán viên độc lập sử dụng công việc của kiểm toán viên nội bộ như thế nào (Cohen & Sayag, 2010). Tuy nhiên, gần đây, đã có nhiều sự chú ý đến các vấn đề liên quan đến tính độc lập của KTNB (Stewart & Subramaniam, 2010). Sự phát triển mạnh mẽ trong nghiên cứu, như đã giải thích trước đó, liên quan đến cách thức vai trò của KTNB dần dần được chuyển đổi từ chủ yếu liên quan với việc kiểm tra tính đúng đắn của các giao dịch, hồ sơ và một cách tiếp cận đánh giá hệ thống, đến việc trở thành một dịch vụ tạo thêm giá trị gia tăng với một phạm vi hoạt động rộng hơn, bao gồm cả việc hỗ trợ các tổ chức trong việc quản lý rủi ro.
Sau đó, vai trò của KTNB đã phát triển đến một vị trí ưu việt là tư vấn cho hội đồng quản trị, mặc dù vẫn tồn tại những mâu thuẫn giữa vai trò tư vấn này và sự cần thiết của tính độc lập (Mihret và cộng sự, 2010). KTNB tạo dựng giá trị và uy tín từ các giả định cơ bản về tính độc lập trong cả tinh thần làm việc và hình ảnh bên ngoài (Stewart & Subramaniam, 2010). Vanasco và cộng sự (1996) chỉ ra rằng nếu không có tính độc lập, kết quả làm việc của kiểm toán nội bộ không thể được thừa nhận. Do đó, vị trí của KTNB trong một tổ chức cần được tự chủ; bản thân nó là một đơn vị trong tổ chức của doanh nghiệp nên cần phải có một mức độ tự chủ và độc lập nhất định để thực hiện các hoạt động của mình một cách đúng đắn (Arena & Azzone, 2009). Xa hơn nữa, sự độc lập của các hoạt động KTNB là một điều kiện tiên quyết để cung cấp một phạm vi rộng lớn các dịch vụ của KTNB.
Tương tự, Clark và cộng sự (1981) phát hiện ra rằng tính độc lập của bộ phận kiểm toán nội bộ là tiêu chí quan trọng nhất ảnh hưởng đến dịch vụ KTNB. BouRaad (2000) tin rằng sức mạnh của một bộ phận kiểm toán nội bộ được đánh giá theo mức độ độc lập của KTNB đối với nhà quản lý và các nhà điều hành. Sự độc lập của kiểm toán viên nội bộ làm tăng hiệu lực kiểm toán nội bộ, vì sự độc lập này có thể làm giảm mức độ xung đột giữa lòng trung thành với tổ chức và lòng trung thành với nhà quản lý cụ thể, và tạo cho kiểm toán viên một môi trường làm việc tích cực, trong đó họ có thể thực hiện các nhiệm vụ của họ một cách đúng đắn, không thiên vị. Vì vậy, kiểm toán viên nội bộ nên đủ độc lập đối với đối tượng được kiểm toán để có thể tiến hành công việc của họ một cách khách quan và không có sự can thiệp (Cohen & Sayag, 2010).
1.2.2.3. Các hoạt động kiểm toán nội bộ
Phạm vi công việc của KTNB là một nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến hiệu lực KTNB. Al-Twaijry và cộng sự (2003) cho rằng phạm vi công việc là một tiêu chí quan trọng về hiệu lực của KTNB - một quan điểm được hỗ trợ bởi ISPPIA. Nói chung, công việc kiểm toán nên bao gồm tất cả hệ thống và vị trí trong toàn bộ tổ chức. Liên đoàn kế toán quốc tế (2007) cho rằng phạm vi của chức năng kiểm toán nội bộ thay đổi nhiều và phụ thuộc vào quy mô, cấu trúc của tổ chức và các yêu cầu của nhà quản lý. Cùng góc nhìn với Al-Twaijry và cộng sự (2003), Aaron Cohen & Gabriel Sayag (2010) trong biến hoạt động của kiểm toán nội bộ cũng đưa ra khảo sát các vấn đề về phạm vi như: kế hoạch kiểm toán hàng năm có được lập toàn bộ bởi kiểm toán nội bộ hay không, kiểm toán nội bộ có kiểm toán hết những khu vực quan trọng của tổ chức hay không, KTNB có thể thực hiện trên toàn bộ các bộ phận và toàn bộ các vấn đề hay không, phản hồi của bộ phận được kiểm toán có được viết thành văn bản, có liên quan và bao phủ toàn diện hay không, KTNB thường xuyên theo dõi kiểm tra các hành động khắc phục các sự cố được tìm thấy hay không, KTNB có thực hiện các hoạt động khác ngoài kiểm toán như xây dựng quy trình, kiểm toán kinh tế và tài chính hay không.
Trong khi đó, cùng đề cập đến vấn đề phạm vi, vấn đề mà Marika Arena and Giovanni Azzone (2009) quan tâm là sự tham gia của kiểm toán nội bộ trong việc đánh giá rủi ro, doanh nghiệp có áp dụng các kỹ thuật tự đánh giá rủi ro kiểm soát hay không và tỷ lệ thời gian kiểm toán nội bộ tham gia vào đánh giá rủi ro là bao nhiêu.
Chất lượng hoạt động của KTNB được coi là một nhân tố ảnh hưởng đến tính hiệu lực của KTNB. Nhìn chung, chất lượng công việc liên quan đến kiểm toán viên nội bộ lập kế hoạch kiểm toán của họ, phát triển các chương trình làm việc, phân bổ quỹ thời gian cho các nhiệm vụ kiểm toán, ghi lại tất cả các thủ tục kiểm toán trong các tài liệu làm việc và lên báo cáo kiểm toán. Hiệu lực KTNB được hiểu là chất lượng hoặc hiệu suất của các nhiệm vụ trong phạm vi chức năng KTNB (Santiso, 2006). Chất lượng hoạt động được coi là các thành phần thích hợp nhất trong việc đánh giá hiệu lực KTNB (Rupšys & Boguslauskas, 2007) bởi vì nó ảnh hưởng đáng kể đến khía cạnh thông tin và truyền thông của hệ thống kiểm soát nội bộ (Fadzil Haron & Jantan, 2005). Phù hợp với các nhà nghiên cứu khác (Santiso, 2006), chất lượng công việc của KTNB được coi là một nhân tố chính của ISPPIA (International Standards for the Professional Practice of Internal Auditing). Các chuẩn mực về chất lượng của Viện kiểm toán nội bộ quốc tế - IIA yêu cầu kiểm toán viên lập kế hoạch và thực hiện các công việc như thể mà anh ấy hoặc cô ấy có thể phát hiện ra các kết quả kiểm toán hữu