Khái Niệm, Đặc Điểm Và Vai Trò Của Dịch Vụ Ngân Hàng Bán Lẻ


nên các Ngân hàng. Những Ngân hàng này thường được Nhà nước hỗ trợ về tài chính và bảo lãnh phát hành giấy nợ, do vậy rất ít khi bị phá sản. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp các Ngân hàng này phải thực hiện các chính sách của Nhà nước có thể bất lợi trong hoạt động kinh doanh.

1.1.3.4. Ngân hàng liên doanh

Ngân hàng này được hình thành trên góp vốn của hai hay nhiều bên, thường là giữa Ngân hàng trong nước với Ngân hàng nước ngoài để tận dụng lợi thế của nhau. Theo định nghĩa tại thông tư 22/2006/NĐ-CP: “Ngân hàng liên doanh là ngân hàng được thành lập tại Việt Nam, bằng vốn góp của bên Việt Nam (gồm một hoặc nhiều ngân hàng Việt Nam) và bên nước ngoài (gồm một hoặc nhiều ngân hàng nước ngoài) trên cơ sở hợp đồng liên doanh. Ngân hàng liên doanh được thành lập dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn, là pháp nhân Việt Nam, có trụ sở tại Việt Nam”. Hiện nay hệ thống các ngân hàng liên doanh tại Việt Nam: Tại Việt Nam hiện có 6 ngân hàng liên doanh: Ngân hàng trách nhiệm hữu hạn Indovina (INDOVINA BANK LIMITTED), Ngân hàng liên doanh Việt-Nga (VIETNAM RUSSIA JOIN VENTURE BANK), Ngân hàng Lào Việt (LAO VIET BANK), Ngân hàng Shinhanvina (SHINHANVINA BANK), Ngân hàng cổ phần VID (VID PUBLIC BANK), Ngân

hàng liên doanh Việt – Thái (VINASIAM BANK).

1.2. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của dịch vụ ngân hàng bán lẻ

1.2.1. Khái niệm ngân hàng bán lẻ

Theo khái niệm của tổ chức thương mại thế giới, NHBL là nơi khách hàng cá nhân có thể đến giao dịch tại những điểm giao dịch của ngân hàng để thực hiện các giao dịch như: gửi tiền tiết kiệm, kiểm tra tài khoản, thế chấp vay vốn, thẻ tín dụng và thẻ ghi nợ cùng các dịch vụ khác đi kèm.

Các chuyên gia kinh tế của học viện công nghệ châu Á – AIT cho rằng NHBL là ngân hàng cung ứng sản phẩm, dịch vụ ngân hàng tới từng cá nhân riêng lẻ, các DNNVV thông qua mạng lưới chi nhánh. Khách hàng có thể tiếp cận trực tiếp với sản phẩm dịch vụ ngân hàng thông qua các phương tiện điện tử viễn thông và công nghệ thông tin (Ngân hàng nhà nước, 2017). Trong nền kinh tế thị trường, nhu cầu về DVNH ngày càng cao, nhất là DVNH bán lẻ. Mục tiêu của DVNH bán lẻ là khách


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 122 trang tài liệu này.

hàng cá nhân, hộ gia đình, doanh nghiệp vừa và nhỏ nên các dịch vụ thường đơn giản, dễ thực hiện và thường xuyên, tập trung vào dịch vụ tiền gửi và tài khoản, vay vốn mua xe hơi, nhà, mở thẻ tín dụng… Nhờ đó, một lượng rất lớn dân cư chưa được biết đến các sản phẩm, DVNH trong tương lai sẽ tham gia vào lĩnh vực này. Sức mạnh của cuộc cách mạng này sẽ được nhân lên gấp bội vì có hàng triệu các khách hàng mới từ nông thôn tới đô thị đang tiếp cận các sản phẩm tài chính mới (Vũ Thị Thái Hà, 2016).

Từ điển giải thích Tài chính – Đầu tư – Ngân hàng – Kế toán Anh Việt, NXB khoa học và kinh tế 1999 định nghĩa dịch vụ NHBL là các dịch vụ ngân hàng được thực hiện với khách hàng là công chúng, thường có quy mô nhỏ và thông qua các chi nhánh nhằm đối lập với dịch vụ NHBB là dịch vụ ngân hàng dành cho các định chế tài chính và những dịch vụ ngân hàng được cung cấp với số lượng lớn.

Các giải pháp phát triển dịch vụ ngân hàng bán lẻ tại Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam – Chi nhánh Vũng Tàu - 4

Như vậy, DVNH bán lẻ là cung ứng sản phẩm, DVNH tới từng cá nhân riêng lẻ, các doanh nghiệp vừa và nhỏ thông qua mạng lưới chi nhánh, khách hàng cũng có thể tiếp cận trực tiếp với sản phẩm và DVNH thông qua các phương tiện điện tử viễn thông và công nghệ thông tin (CNTT). Lưu ý là: Thuật ngữ Ngân hàng bán lẻ còn được hiểu rộng hơn tín dụng bán lẻ và dịch vụ ngân hàng bán lẻ được tiếp cận với nhiều hình thức không chỉ đơn thuần thông qua các phương tiện điện tử viễn thông và công nghệ thông tin (CNTT).

1.2.2. Đặc điểm của dịch vụ ngân hàng bán lẻ

- Đối tượng của dịch vụ NHBL là các khách hàng cá nhân, các hộ gia đình, các doanh nghiệp vừa và nhỏ nên đối tượng khách hàng của dịch vụ NHBL là rất lớn.

Dịch vụ NHBL luôn cải tiến cho phù hợp với nhu cầu đa dạng và ngày càng gia tăng của khách hàng với sự tiến bộ của công nghệ. Đối tượng của dịch vụ NHBL chủ yếu là các cá nhân khác nhau về thu nhập, trình độ dân trí, hiểu biết, tính cách, sở thích, nghề nghiệp nên nhu cầu của khách hàng rất đa dạng. Với nền tảng công nghệ thông tin luôn phát triển, tiến bộ đòi hỏi dịch vụ NHBL ngày càng đa dạng và thay đổi liên tục để thỏa mãn nhu cầu khách hàng. Nếu đối tượng phục vụ của dịch vụ ngân hàng bán buôn (NHBB) là các tập đoàn kinh tế, tổng công ty, các ngân hàng, tổ chức tín dụng có quy mô vừa và nhỏ thì đối tượng phục vụ của dịch vụ NHBL là các khách hàng cá nhân, hộ gia đình và các doanh nghiệp vừa và nhỏ.


- Dịch vụ đơn giản dễ thực hiện

Nếu ở dịch vụ NHBB các sản phẩm dịch vụ thường mang tính chuyên môn hóa cao, phức tạp, trải qua nhiều quy trình xử lý thì ở dịch vụ NHBL sản phẩm dịch vụ đa dạng phong phú, phù hợp với mọi đối tượng, tầng lớp trong xã hội. Khách hàng mục tiêu của dịch vụ NHBL là khách hàng cá nhân nên các dịch vụ thường tập trung vào các dịch vụ tiền gửi và tài khoản, vay vốn… nên nhìn chung dịch vụ đơn giản dễ thực hiện.

- Độ rủi ro không cao

Nếu các dịch vụ ngân hàng bán buôn (NHBB) tại các ngân hàng tập trung vào đối tượng khách hàng là các tổ chức kinh tế, trung gian tài chính với giá trị giao dịch, gói sản phẩm dịch vụ lớn độ rủi ro cao thì đối với dịch vụ NHBL với số lượng khách hàng cá nhân lớn, rủi ro phân tán mang lại doanh thu ổn định và tương đối an toàn cho các NHTM.

- Chịu ảnh hưởng lớn của phương tiện điện tử viễn thông và công nghệ thông tin (CNTT)

Về cách thức phân phối sản phẩm, nếu dịch vụ NHBB cung cấp sản phẩm dịch vụ thông qua trung gian tài chính (các NHTM, các quỹ…) hoặc thông qua thị trường tài chính (thị trường tiền tệ liên ngân hàng) thì dịch vụ NHBL cung cấp trực tiếp sản phẩm dịch vụ ngân hàng đến mọi đối tượng với sự phong phú, đa dạng và nhiều tiện ích. Đặc biệt, sự phát triển của CNTT đã hỗ trợ triển khai các sản phẩm DVNH bán lẻ tiên tiến như chuyển tiền tự động, huy động vốn và cho vay dân cư dưới nhiều hình thức khác nhau. Nhiều nghiên cứu cho rằng, việc phát triển dịch vụ NHBL chủ yếu dựa vào CNTT, do đó việc ứng dụng phổ biến E-banking là một xu thế tất yếu để phát triển dịch vụ NHBL và thương mại điện tử.

- Số lượng giao dịch lớn những giá trị mỗi giao dịch là nhỏ

Về tính chất giao dịch, nếu ở dịch vụ NHBB số lượng giao dịch ít, giá trị mỗi giao dịch cao thì ở dịch vụ NHBL số lượng giao dịch nhiều nhưng giá trị mỗi giao dịch nhỏ.


1.2.3. Vai trò của dịch vụ ngân hàng bán lẻ trong nền kinh tế

Hoạt động bán lẻ sẽ ngày càng chiếm tỷ trọng cao trong doanh số kinh doanh của các ngân hàng. Xu hướng hiện nay là phần lớn các NHTM trên thế giới đều chú trọng nhiều đến hoạt động bán lẻ. Hoạt động bán lẻ mang lại rất nhiều lợi ích cho cả về phía nhà cung cấp dịch vụ, khách hàng, nền kinh tế và cho toàn xã hội.

- Đối với nền kinh tế - xã hội

Việc thanh toán bằng thẻ, tài khoản ngân hàng trong hoạt động NHBL góp phần hạn chế việc thanh toán bằng tiền mặt của người dân. Nhờ đó tiết kiệm chi phí, thời gian, góp phần giảm chi phí xã hội. Nhờ có hoạt động NHBL, nguồn vốn của dân cư được sử dụng có hiệu quả hơn, góp phần vào quá trình phát triển kinh tế đất nước. Hoạt động NHBL tạo điều kiện cho các ngành dịch vụ khác phát triển. Công nghệ ngân hàng phát triển sẽ tạo thuận lợi hơn cho việc thanh toán của các ngành dịch vụ liên quan (Vũ Thị Thái Hà, 2016). Các dịch vụ thẻ, chuyển tiền, thu chi hộ,... gắn với ngành dịch vụ khác như bưu chính viễn thông, du lịch, giao thông vận tải… Phát triển dịch vụ NHBL dẫn đến các hoạt động của các chủ thể kinh tế trong xã hội đều thông qua ngân hàng, góp phần nâng cao hiệu quả quản lý của nhà nước về tiền tệ, về tài chính như thuế, gian lận thương mại…

- Đối với ngân hàng

Hoạt động ngân hàng bán lẻ mang lại nguồn thu ổn định, chắc chắn và ít rủi ro. Việc phát triển hoạt động bán lẻ là một cách hữu hiệu để phân tán rủi ro trong kinh doanh, giữ vững sự ổn định của ngân hàng. Hoạt động bán lẻ góp phần thay đổi cơ cấu kết quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Ngân hàng kinh doanh theo cách thức cổ điển, doanh thu chủ yếu từ hoạt động tín dụng, thu dịch vụ chỉ chiếm một tỷ trọng rất nhỏ (Ngân hàng Nhà nước, 2017). Với điều kiện thị trường ngày càng phức tạp, hoạt động tín dụng có quá nhiều rủi ro, vì vậy NHTM đẩy nhanh phát triển DVNH để gia tăng nguồn thu dịch vụ trong cơ cấu thu nhập của mình. Phát triển dịch vụ NHBL chính là cách thức tạo nền tảng, hạ tầng cơ sở cho phát triển ứng dụng công nghệ ngân hàng trung dài hạn. Đồng thời khai thác có hiệu quả công nghệ trang bị cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng (Vò Thị Phương, 2017). Tạo điều kiện quản lý hệ thống tập trung và cũng là cách thức giới thiệu, quảng cáo có hiệu quả thương hiệu của ngân


hàng đó trên thị trường. Hoạt động bán lẻ cũng giúp nâng cao chất lượng cung ứng dịch vụ, hợp lý tổ chức bộ máy của ngân hàng sao cho đơn giản mà đạt hiệu quả cao nhất.

- Đối với khách hàng

Hoạt động NHBL đem đến sự thuận tiện, an toàn, tiết kiệm cho khách hàng trong quá trình thanh toán và sử dụng nguồn thu nhập của mình, góp phần giảm thiểu chi phí xã hội qua việc tiết kiệm chi phí thời gian, chi phí thông tin (Văn Tạo, 2009). Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp vừa và nhỏ, khách hàng cá nhân khó có điều kiện cạnh tranh về vốn, công nghệ với các doanh nghiệp lớn. Hoạt động NHBL sẽ hỗ trợ tích cực cho các đối tượng khách hàng này phát triển thông qua tiếp cận nguồn vốn vay từ ngân hàng, sử dụng các DVNH, tạo điều kiện cho quá trình sản xuất kinh doanh được tiến hành trôi chảy, nhịp nhàng, thúc đẩy vòng quay vốn, góp phần đẩy nhanh tốc độ sản xuất, luân chuyển hàng hoá.

1.3. Các sản phẩm và dịch vụ chủ yếu của dịch vụ ngân hàng bán lẻ

1.3.1. Huy động vốn dân cư

Huy động vốn là một hoạt động truyền thống của NHTM góp phần hình thành nên nguồn vốn hoạt động của NHTM. NHTM huy động vốn từ các khách hàng cá nhân, khách hàng là doanh nghiệp vừa và nhỏ theo các hình thức là tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, phát hành giấy tờ có giá…Với những đặc điểm là huy động vốn thông qua tài khoản tiền gửi thanh toán, tiền gửi có kỳ hạn, giấy tờ có giá… tập trung chủ yếu ở những đô thị phát triển về kinh tế xã hội; chi phí vốn không đồng nhất giữa các địa bàn giữa các thời điểm. Căn cứ vào các điều kiện về kinh tế, xã hội mặt bằng lãi suất tại địa phương và nhu cầu vốn của ngân hàng trong từng thời kỳ nhất định mà mỗi ngân hàng sẽ có những mức lãi suất huy động phù hợp.

1.3.2. Tín dụng bán lẻ

Hoạt động cho vay bán lẻ được chia thành 2 nhóm là cho vay có tài sản đảm bảo và cho vay không cần tài sản đảm bảo. Trong hoạt động cho vay bán lẻ các NHTM thường cung cấp dịch vụ cho vay tiêu dùng, cho vay cá nhân (cho vay du học, cho vay mua ô tô, cho vay mua nhà trả góp, tài trợ dự án chuyên biệt…), cho vay cầm cố, thế chấp và cho vay hộ gia đình. Cho vay cá nhân hiện chiếm một tỷ trọng rất quan


trọng trong danh mục đầu tư của các NHTM trên thế giới, tỷ trọng cho vay cá nhân và gia đình trong dư nợ cho vay của NHTM ngày càng cao. Trong hoạt động cho vay bán lẻ thì quy mô của từng món vay nhỏ, số lượng các món vay nhiều. Vì vậy chi phí bình quân trên một đồng vốn cho vay mà ngân hàng phải chịu cao hơn các loại cho vay khác; nhu cầu tín dụng phong phú và đa dạng. Các hình thức cho vay chủ yếu là cho vay từng lần, cho vay thấu chi và cho vay theo hạn mức. Bên cạnh đó trong hoạt động cho vay bán lẻ luôn tồn tại nhóm khách hàng chây ì, lừa đảo vì vậy đòi hỏi cán bộ thẩm định cho vay có kinh nghiệm và đạo đức nghề nghiệp.

1.3.3. Dịch vụ thanh toán

Việc thanh toán qua tài khoản tiền gửi giao dịch được coi là bước tiến quan trọng nhất trong công nghệ ngân hàng bởi vì nó cải thiện đáng kể hiệu quả của quá trình thanh toán, các giao dịch trở nên dễ dàng, nhanh chóng và an toàn. Với việc cung ứng dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt, NHTM mang lại cho khách hàng nhiều tiện ích trong thanh toán. Nhờ đó, NHTM có thể tăng thêm thu nhập từ thu phí dịch vụ và là cơ sở để phát triển các dịch vụ khác. Cụ thể là thông qua việc mở tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng, các ngân hàng có cơ hội cung cấp dịch vụ thẻ cho các cá nhân và các dịch vụ khác kèm theo. Hiện nay các NHTM đang áp dụng các phương thức thanh toán là chuyển tiền trong nội bộ hệ thống ngân hàng, chuyển tiền qua ngân hàng khác, chuyển tiền qua ngân hàng nước ngoài…

1.3.4. Dịch vụ thẻ

Thẻ là phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt mà chủ thẻ có thể sử dụng để rút tiền mặt, chuyển khoản, vấn tin số dư, thanh toán hóa đơn… tại các máy rút tiền tự động (ATM) hoặc thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ tại các đơn vị chấp nhận thẻ. Có hai loại thẻ chính đó là thẻ nội địa và thẻ quốc tế.

Hiện nay, các NHTM cung cấp nhiều dịch vụ tiện ích gắn liền với thẻ thanh toán nội địa đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của khách hàng. Thẻ thanh toán quốc tế là phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt được lưu hành trên toàn thế giới. Hiện nay các loại thẻ quốc tế tiêu biểu là thẻ Visa, thẻ MasterCard, thẻ JCB. Dịch vụ thẻ góp phần quan trọng cho NHTM trong huy động vốn, thu phí dịch vụ và nâng cao hình ảnh của NHBL đối với công chúng.


1.3.5. Dịch vụ bảo lãnh

Bảo lãnh ngân hàng là hình thức cấp tín dụng, theo đó tổ chức tín dụng cam kết với bên nhận bảo lãnh về việc tổ chức tín dụng sẽ thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng khi khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ đã cam kết; khách hàng phải nhận nợ và hoàn trả cho tổ chức tín dụng theo thỏa thuận.

1.3.6. Các loại dịch vụ khác

Bao gồm dịch vụ thu hộ, chi hộ, chi trả kiều hối, dịch vụ bảo hiểm, tư vấn tài chính…

Thu hộ, chi hộ là dịch vụ mà ngân hàng thay mặt các chủ tài khoản thực hiện các dịch vụ thu hộ tiền nộp vào tài khoản, chi tiền phục vụ các nhu cầu sinh hoạt, hoạt động kinh doanh của chủ tài khoản. Do bận rộn thường xuyên với công việc, nên dịch vụ trên rất hữu ích và phổ biến hiện nay.

Dịch vụ chi trả kiều hối là một dịch vụ NHBL chủ yếu phục vụ chuyển tiền của các cá nhân ra nước ngoài hoặc từ nước ngoài chuyển về. Dịch vụ này thu hút nguồn ngoại tệ lớn cho ngân hàng. Hiện nay các NHTM đang khai thác các kênh kiều hối chuyển tiền thông qua các công ty dịch vụ kiều hối trong nước và quốc tế như Western Union, MoneyGram…

Dịch vụ bảo hiểm, với sự liên kết giữa ngân hàng và công ty bảo hiểm, kết hợp bán chéo sản phẩm mà hiện nay các NHTM cung cấp đầy đủ các sản phẩm bảo hiểm gắn liền với các sản phẩm dịch vụ của ngân hàng, tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng như: bảo hiểm ô tô, xe máy, nhà ở… Dịch vụ tư vấn tài chính, nhờ khả năng tập hợp và phân tích thông tin tài chính khiến cho NHTM từ lâu đã được khách hàng yêu cầu thực hiện hoạt động tư vấn tài chính, đặc biệt là về tiết kiệm và đầu tư. Ngân hàng ngày nay cung cấp nhiều dịch vụ tư vấn tài chính đa dạng, từ chuẩn bị về thuế và kế hoạch tài chính cho các cá nhân đến tư vấn về các cơ hội thị trường trong và ngoài nước cho khách hàng kinh doanh.


1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc phát triển dịch vụ ngân hàng bán lẻ.

1.4.1. Nhân tố chủ quan

- Chất lượng sản phẩm dịch vụ NHBL

Chất lượng dịch vụ là điều kiện quyết định sự sống còn của bất kỳ một loại hình dịch vụ nào trên thị trường. Trong ngành tài chính ngân hàng với đặc điểm dịch vụ hướng tới khách hàng, cần luôn thay đổi theo hướng tăng tiện ích và nâng cao chất lượng phục vụ.

- Cơ sở vật chất

Công nghệ hiện đại, đặc biệt là phương tiện điện tử viễn thông và công nghệ thông tin cho phép các NHTM tạo ra khả năng phát triển sản phẩm mới có tính chất riêng biệt, độc đáo gắn với khả năng sáng tạo và tạo ra thương hiệu, uy tín của sản phẩm rất cao. Công nghệ hiện đại giúp nâng cao chất lượng dịch vụ. Chất lượng dịch vụ gắn liền với các yếu tố mang lại đảm bảo về sự tiện ích cho khách hàng, sự tiện lợi cho khách hàng cũng như các tiện ích đem lại cho ngân hàng. Ngoài ra, công nghệ hiện đại tạo điều kiện cho các NHTM nâng cao hiệu quả hoạt động, hiệu quả kinh doanh nhờ tăng trưởng nguồn thu dịch vụ, tiết kiệm chi phí và hơn hết là giảm thiểu rủi ro nhờ đa dạng hóa hoạt động kinh doanh.

- Năng lực tài chính của ngân hàng

Năng lực tài chính đóng vai trò quan trọng trong hoạt động của một ngân hàng, chỉ khi năng lực tài chính đủ mạnh thì ngân hàng mới có đủ vốn để trang bị các tài sản cần thiết cho việc kinh doanh của họ trong đó có hệ thống công nghệ thông tin hiện đại. Bên cạnh đó, vốn còn được dùng vào các hoạt động thiết thực khác như nghiên cứu thị trường, nghiên cứu sản phẩm mới, thực hiện các chiến dịch quảng cáo, khuyến mãi… Một ngân hàng có quy mô vốn lớn sẽ dễ dàng tạo được sự tin cậy của khách hàng và các đối tác trong và ngoài nước. Nếu vốn nhỏ sẽ không đủ lực để đa dạng các dịch vụ và nâng cao hiệu quả của các dịch vụ sẵn có. Muốn vậy, mỗi ngân hàng phải chủ động xây dựng chiến lược tăng vốn dài hạn, theo những lộ trình thích hợp phù hợp với nhu cầu phát triển và khả năng kiểm soát của mỗi ngân hàng trong từng thời kỳ.

Ngày đăng: 03/06/2022