Mô Hình Khung Sườn Dốc Trơn Trượt Về Tuân Thủ Thuế - Ssf


Môi trường hợp tác có thể được đặc trưng bởi ý tưởng rằng các cơ quan thuế thực hiện một dịch vụ cho cộng đồng và là một phần của cùng một cộng đồng mà cá nhân người nộp thuế thuộc về. Cách tiếp cận của nhà chức trách có thể được mô tả như một thái độ “dịch vụ và khách hàng”, như nó được tuyên truyền trong Quản lý công mới. Các nhà chức trách hướng tới các thủ tục minh bạch và đối xử tôn trọng và hỗ trợ người nộp thuế. Ví dụ, ở Thụy Sĩ, chính quyền đối xử thân thiện và tôn trọng với người nộp thuế đã được công nhận từ lâu như một phương tiện quan trọng để tăng cường tuân thủ thuế (Feld và Frey, 2005). Trong một môi trường như vậy, khoảng cách xã hội có khả năng thấp, sự tuân thủ tự nguyện có khả năng chiếm ưu thế và các cá nhân ít xem xét cơ hội trốn tránh hơn và có nhiều khả năng đóng góp phần của họ vì nghĩa vụ.

Từ điểm xuất phát đó, SSF tiến hành với ý tưởng về việc tuân thủ thuế theo hai khía cạnh chính: quyền lực của cơ quan thuế và niềm tin vào cơ quan thuế. Các khía cạnh này và sự tương tác của chúng cùng ảnh hưởng đến mức độ tuân thủ thuế (Kirchler, 2007). Ở đây, giả định rằng việc tuân thủ thuế có thể đạt được thông qua mức độ quyền lực và sự tin cậy ngày càng tăng; tuy nhiên, khi gia tăng từng khía cạnh về quyền lực của cơ quan thuế hoặc cải thiện niềm tin vào cơ quan thuế sẽ dẫn đến kết quả là hành vi tuân thủ bắt buộc trong trường hợp trước và tuân thủ tự nguyện trong trường hợp sau. Tác động của những thay đổi trong một chiều được giả định là phụ thuộc vào mức độ của chiều kia, dẫn đến hình cách điệu được thể hiện trong Hình 2.4. Mô hình SSF về tuân thủ thuế được đề xuất bằng đồ thị trong không gian ba chiều với quyền lực của cơ quan thuế, niềm tin vào cơ quan thuế và hành vi tuân thủ thuế như hình dưới đây:


Hình 2 5 Mô hình khung sườn dốc trơn trượt về tuân thủ thuế SSF Nguồn 1

Hình 2.5: Mô hình khung sườn dốc trơn trượt về tuân thủ thuế - SSF

Nguồn: Kirchler, Hoelzl và Wahl (2008)


Mô hình SSF cho thấy trong điều kiện mà niềm tin vào cơ quan thuế thấp và quyền lực của cơ quan thuế yếu, có khả năng là người nộp thuế tìm cách tối đa hóa lợi ích cá nhân của họ bằng cách trốn thuế, đưa sự tuân thủ đến mức tối thiểu. Bên cạnh đó, trong mô hình SSF cũng cho thấy:

(i) Di chuyển dọc theo cạnh bên trái, dọc theo chiều quyền lực của cơ quan thuế trong điều kiện có sự tin cậy vào cơ quan thuế thấp, sự tuân thủ sẽ tăng lên cùng với quyền lực của thuế trong việc nâng cao xác suất kiểm tra và phát hiện và phạt nặng. Người nộp thuế ngày càng có ít động lực để trốn tránh hơn, bởi vì kết quả dự kiến của việc không tuân thủ giảm xuống dưới mức mong đợi kết quả của việc tuân thủ. Việc tăng cường quyền lực của cơ quan thuế dẫn đến hành vi tuân thủ bắt buộc.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 256 trang tài liệu này.

(ii) Di chuyển từ góc phía trước dọc theo cạnh bên phải, dọc theo chiều niềm tin vào cơ quan thuế trong điều kiện quyền lực cơ quan thuế thấp, sự tuân thủ tăng lên theo mức độ niềm tin vào cơ quan thuế. Niềm tin vào cơ quan thuế ngày càng tăng có khả năng dẫn đến hành vi tuân thủ tự nguyện.

(iii) Hành vi tuân thủ thuế của người nộp thuế cao với điều kiện có quyền lực cơ quan thuế mạnh cũng như trong điều kiện có niềm tin vào cơ quan thuế cao. Tuy nhiên, lý do tuân thủ là khác nhau và có sự khác biệt về chất giữa hành vi tuân thủ thuế bắt buộc và tự nguyện ở người nộp thuế.

(iv) Các khía cạnh quyền lực của cơ quan thuế và niềm tin vào cơ quan thuế điều hòa lẫn nhau. Sự thay đổi về niềm tin vào cơ quan thuế quan trọng nhất khi quyền lực thấp; tuy nhiên, khi quyền lực của cơ quan thuế ở mức tối đa, các thay đổi về niềm tin vào cơ quan thuế là không liên quan vì các cơ quan có thẩm quyền có thể thực thi sự tuân thủ tối đa. Ngược lại, sự khác biệt về vấn đề quyền lực của cơ quan thuế nhiều nhất khi niềm tin vào cơ quan thuế thấp; tuy nhiên, khi niềm tin vào cơ quan thuế ở mức tối đa, sự khác biệt về quyền lực không quan trọng

Kết quả tổng quan các công trình nghiên cứu có liên quan, tác giả nhận thấy mô hình SSF đã được nhiều nghiên cứu, đặc biệt là các nghiên cứu về hành vi tuân thủ thuế trong thời gian gần đây (Xem bảng 1.1 và phụ lục 01) và đây cũng là mô hình được áp dụng phổ biến cho quản lý thuế hiện đại.

2.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi tuân thủ thuế của người nộp thuế

2.4.1. Chính sách, pháp luật thuế

Theo Giáo trình Quản lý thuế thì chính sách thuế là hệ thống những quan điểm, đường lối, phương châm điều tiết thu nhập của các tổ chức và cá nhân trong xã hội


thông qua thuế. Pháp luật thuế là hệ thống những quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung. Nhà nước muốn chính sách đi vào cuộc sống thì phải thể chế hóa những chính sách ấy thành pháp luật thuế (Lê Xuân Trường, 2016)

Với cách hiểu trên cho thấy, đây là một trong các nhân tố cực kỳ quan trọng tác động đến tính tuân thủ. Hệ thống chính sách, pháp luật thuế cần phải xây dựng đồng bộ, rõ ràng, đơn giản, minh bạch và công bằng, càng ít ngoại lệ sẽ tạo môi trường thuận lợi cho sản xuất kinh doanh phát triển, giảm chi phí tuân thủ, giảm rủi ro do tham nhũng và phiền hà cho NNT, qua đó cũng giúp cho việc thực hiện tuân thủ thuế tốt hơn. Ngược lại, nếu hệ thống pháp luật thuế phức tạp, không đồng bộ, thiếu tính chặt chẽ và chồng chéo sẽ làm tăng cơ hội cho NNT có những hành vi lợi dụng kẽ hở của luật để trục lợi, làm giảm tác dụng quản lý và răn đe của luật pháp.

2.4.2. Hoạt động quản lý thuế của cơ quan thuế

Quản lý thuế được hiểu là quá trình tổ chức, triển khai thực hiện pháp luật thuế trong đời sống kinh tế - xã hội. Mục tiêu của quản lý thuế là đảm bảo tất cả các tổ chức, cá nhân thuộc NNT phải thực thi đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật thuế. Để đạt được mục tiêu đó, CQT thuế thực hiện các hoạt động sau:

Thủ tục hành chính thuế: theo Lê Xuân Trường (2016) thủ tục thuế được hiểu là các công việc NNT cần phải thực hiện, các hồ sơ, giấy tờ cần phải nộp cho CQT hoặc phải lưu giữ, xuất trình phục vụ quản lý thuế theo quy định pháp luật thuế để vụ cho việc kê khai, nộp thuế. Vì thế, thủ tục hành chính thuế liên quan trực tiếp đến NNT bao gồm: Thủ tục đăng ký thuế; thủ tục kê khai thuế, thủ tục nộp thuế và các thủ tục về kiểm tra, thanh tra thuế. Thủ tục hành chính thuế có tác động thúc đẩy hoặc kìm hãm tính tuân thủ của NNT. Thủ tục hành chính thuế dễ hiểu, dễ thực hiện thì tạo điều kiện thuận lợi để NNT tuân thủ thuế và ngược lại.

Hoạt động tuyên truyền, hỗ trợ người nộp thuế

Tuyên truyền pháp luật thuế là hoạt động nhằm chuyển tải các thông tin về pháp luật thuế một cách chính xác, đầy đủ, kịp thời và chính thống đến mọi thành viên trong xã hội bằng những hình thức, biện pháp cụ thể.

Hoạt động tuyên truyền về thuế bao gồm: Tuyên truyền, giải thích về bản chất, vai trò của thuế, các lợi ích xã hội có được từ việc sử dụng tiền thuế; tuyên truyền, phổ biến nội dung các chính sách, pháp luật về thuế; phổ biến các vấn đề liên quan đến nghĩa vụ và trách nhiệm của CQT, của NNT và các tổ chức, cá nhân khác trong xã hội trong việc cung cấp thông tin và phối hợp thực hiện các luật thuế; phổ biến các thủ tục về thuế, quy định về việc xử lý các vi phạm pháp luật về thuế; tuyên dương, khen thưởng NNT chấp hành tốt pháp luật về thuế...


Trong khi đó, hoạt động hỗ trợ NNT bao gồm các nội dung như hướng dẫn, tư vấn các nội dung về chính sách, chế độ thuế; hướng dẫn, tư vấn các thủ tục, quy trình chấp hành nghĩa vụ thuế như thủ tục đăng ký thuế, kê khai thuế, nộp thuế, xin miễn giảm thuế… hướng dẫn, tư vấn cách lập các mẫu biểu báo cáo về thuế; tư vấn các vấn đề liên quan đến thuế như kế toán, cách sử dụng, quản lý hóa đơn, chứng từ; hướng dẫn và cung cấp các thông tin cảnh báo về các trường hợp trốn thuế, gian lận thuế, các chế tài xử phạt đối với các hành vi vi phạm pháp luật thuế; giải đáp các vướng mắc phát sinh trong quá trình thực hiện nghĩa vụ thuế của NNT… Hoạt động này có thể được thực hiện thông qua các hình thức hỗ trợ như dịch vụ giải đáp các vướng mắc của NNT qua điện thoại, qua các cuộc tư vấn trực tiếp, trả lời qua thư…

Quản lý kê khai thuế

Quản lý kê khai thuế là hoạt động quản lý nhằm giúp CQT nắm bắt toàn bộ tình trạng đăng ký thuế, kê khai thuế của NNT.

Kê khai thuế là việc NNT căn cứ vào số liệu và tình hình thực tế các hoạt động phát sinh nghĩa vụ thuế để kê khai xác định số tiền thuế phải nộp vào NSNN trong kỳ tính thuế theo quy định của pháp luật. Thông thường, hoạt động kê khai thuế được thực hiện bằng cách điền các số liệu và dữ liệu khác có liên quan đến xác định nghĩa vụ vào các mẫu tờ khai và phụ lục tờ khai thuế, sau đó nộp hồ sơ khai thuế cho CQT.

Việc kê khai và nộp hồ sơ khai thuế chính xác, đầy đủ và đúng thời hạn là một tiêu chí cơ bản đánh giá mức độ tuân thủ thuế của NNT và cũng là cơ sở tin cậy để CQT đưa ra các chiến lược, biện pháp quản lý phù hợp cho từng nhóm NNT, đảm bảo được sự tuân thủ tự nguyện tối đa của họ.

Như vậy, thông qua hoạt động quản lý kê khai thuế, cơ quan quản lý thuế nắm được tình hình tuân thủ trong kê khai thuế của NNT như: số lượng NNT phải nộp hồ sơ khai thuế, số lượng NNT nộp chậm hồ sơ khai thuế, số lượng NNT không nộp hồ sơ khai thuế, số lượng NNT có các sai sót, nhầm lẫn hay gian lận trên hồ sơ khai thuế... Từ đó, CQT có các biện pháp như đôn đốc, nhắc nhở, yêu cầu giải trình, bổ sung hồ sơ hay đưa ra các quyết định ấn định thuế, kiểm tra tại trụ sở NNT, thanh tra thuế... nhằm hạn chế các hành vi không tuân thủ nói trên.

Kiểm tra, thanh tra NNT

Mục đích chủ yếu của hoạt động kiểm tra, thanh tra thuế là kiểm soát, đối chiếu, đánh giá tính đúng đắn, trung thực trong hoạt động kê khai thuế và thực hiện nghĩa vụ thuế của NNT; phát hiện và xử lý kịp thời, nghiêm minh các hành vi gian lận trong tuân thủ thuế của NNT.


Kiểm tra thuế là hoạt động của CQT trong việc xem xét tình hình thực tế của đối tượng kiểm tra, từ đó đối chiếu với chức năng, nhiệm vụ, yêu cầu đặt ra đối với đối tượng kiểm tra để có những nhận xét, đánh giá về tình hình chấp hành nghĩa vụ thuế của đối tượng kiểm tra (Lê Xuân Trường, 2016).

Thanh tra thuế là hoạt động kiểm tra của tổ chức chuyên trách làm công tác thanh tra của CQT với đối tượng thanh tra nhằm phát hiện, ngăn chặn và xử lý những hành vi trái pháp luật (Lê Xuân Trường, 2016).

Nội dung của công tác kiểm tra, thanh tra đối với NNT bao gồm: (i) Kiểm tra, thanh tra đăng ký thuế; (ii) Kiểm tra, thanh tra việc chấp hành chế độ kế toán, sổ sách, chứng từ, hóa đơn; (iii) Kiểm tra, thanh tra việc kê khai, tính thuế và nộp thuế.

Trong điều kiện thực hiện cơ chế tự khai, tự nộp thuế, hoạt động kiểm tra, thanh tra thuế là một nội dung rất cơ bản trong việc thực hiện các chức năng của cơ quan quản lý thuế. CQT không còn can thiệp trực tiếp vào quá trình kê khai, nộp thuế của NNT, trừ các trường hợp phát hiện các sai sót, vi phạm hoặc các dấu hiệu không chấp hành luật thuế. CQT có trách nhiệm tuyên truyền, hỗ trợ, hướng dẫn để NNT hiểu rõ và tự giác thực hiện nghĩa vụ thuế, đồng thời giám sát chặt chẽ việc tuân thủ nghĩa vụ thuế của NNT và thông qua công tác kiểm tra, thanh tra để phát hiện, xử lý kịp thời những hành vi không tuân thủ thuế của NNT.

Thông qua hoạt động kiểm tra, thanh tra thuế (kiểm tra, thanh tra việc đăng ký thuế, khai thuế, nộp thuế, chấp hành chế độ kế toán, hóa đơn chứng từ...), các hành vi không tuân thủ thuế của NNT sẽ bị phát hiện và xử lý kịp thời. Các hình thức xử lý tương ứng với mức độ vi phạm được thực thi nghiêm minh, công bằng sẽ là công cụ cảnh báo, ngăn ngừa, răn đe rất lớn ngăn ngừa sự tái phạm của NNT. Do đó, hoạt động kiểm tra, thanh tra thuế được tiến hành một cách có hiệu quả và sử dụng những hình phạt thích đáng sẽ góp phần rất quan trọng trong việc nâng cao tính TTT của NNT.

Quản lý nợ thuế và cưỡng chế nợ thuế

Nộp thuế là hành động NNT chuyển số tiền thuế phải nộp vào tài khoản của Nhà nước trong Kho bạc Nhà nước. Để đảm bảo NNT nộp tiền vào NSNN đầy đủ và đúng thời hạn, công tác quản lý CQT phải thực hiện quản lý nợ thuế và cưỡng chế nợ thuế.

Quản lý nợ thuế là công việc theo dõi, nắm bắt thực trạng nợ thuế và các khoản thu khác do CQT quản lý và thực hiện các biện pháp đôn đốc thu hồi số thuế nợ của NNT. Thông qua hoạt động quản lý nợ thuế, CQT nắm bắt được chính xác tình hình thực hiện nghĩa vụ của NNT, xác định được số thuế đã được nộp vào NSNN, số thuế


còn nợ đọng của từng NNT; từ đó có các biện pháp thúc đẩy NNT nộp các khoản thuế đầy đủ, kịp thời vào NSNN; đảm bảo tuân thủ nghiêm túc pháp luật thuế. Thông qua đó, hoạt động quản lý số thuế đã nộp và số thuế nợ của NNT đã góp phần nâng cao ý thức tuân thủ thuế của NNT.

Cưỡng chế nợ thuế

Cưỡng chế nợ thuế là việc CQT và các cơ quan bảo vệ pháp luật áp dụng các biện pháp buộc NNT phải thực hiện nghĩa vụ thuế.

Công tác cưỡng chế nợ thuế bao gồm các nội dung: (i) Thông báo cho NNT biết trách nhiệm phải thực hiện nghĩa vụ thuế và những hậu quả có thể phải chịu nếu không thực hiện nghĩa vụ thuế; (ii) Bằng các biện pháp cưỡng chế như dừng bán hóa đơn, đình chỉ hoạt động kinh doanh… để buộc NNT phải thực hiện nghĩa vụ nghĩa vụ thuế. Cưỡng chế nợ thuế có thể được coi là khâu cuối cùng trong quy trình quản lý thuế.

Cưỡng chế thuế thể hiện tính chất buộc phải tuân thủ bởi quyền lực nhà nước của thuế. Với tính chất như vậy, cưỡng chế thuế có tác động lớn đến tính tuân thủ thuế của NNT. Hoạt động này không chỉ tác động trực tiếp bắt buộc những NNT có hành vi chống đối phải tuân thủ nghiêm túc mà còn có tác động đến ý thức tuân thủ của toàn thể NNT đối với pháp luật thuế.

2.4.3. Trình độ chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp của công chức thuế

Trình độ chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp của các cán bộ, công chức quản lý thuế sẽ góp phần đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật. Trình độ chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp của công chức thuế đến tính tuân thủ thuế của NNT thể hiện ở chỗ nếu trình độ chuyên môn của công chức thuế cao và đạo đức nghề nghiệp tốt thì sẽ có những tác động tích cực sau: (i) Giải quyết nhanh chóng, thuận lợi các thủ tục về thuế cho NNT, qua đó, tạo sự hài lòng cho NNT khiến NNT sẵn sàng tuân thủ thuế;

(ii) Không gây phiền hà, sách nhiễu nên không cản trở NNT tuân thủ thuế; (iii) Không thông đồng giúp NNT gian lận thuế.

2.4.4. Cơ sở vật chất và kỹ thuật của cơ quan thuế

Cơ sở vật chất kỹ thuật là nhân tố có tính chất điều kiện tiền đề vật chất cho hoạt động kê khai, nộp thuế của NNT và hoạt động quản lý thuế của CQT.

Cơ sở vật chất và kỹ thuật của ngành thuế càng tiên tiến, càng hiện đại sẽ giúp công chức thuế thực hiện nhanh chóng các thao tác nghiệp vụ để phục vụ NNT tốt hơn qua đó giảm thời gian thực hiện thủ tục thuế, giảm chi phí tuân thủ, làm NNT hài lòng hơn với sự trợ giúp của CQT, giúp NNT tuân thủ thuế hơn.


2.4.5. Nhóm yếu tố thuộc về người nộp thuế13

Tiếp cận theo góc độ tâm lý xã hội của người nộp thuế và kết quả tổng quan nghiên cứu đã chỉ ra (i) các yếu tố tâm lý xã hội (tinh thần thuế, chuẩn mực chủ quan, nhận thức về tính công bằng, nhận thức về quyền lực của cơ quan thuế, nhận thức về thuế, niềm tin vào cơ quan thuế); (ii) các yếu tố thuộc về thể chế (sự phức tạp về thuế, thông tin về thuế); (iii) các yếu tố thuộc về kinh tế (xử phạt, khả năng bị kiểm tra, thanh tra thuế); (iv) các yếu tố nhân khẩu học (tuổi, giới tính, trình độ); (v) các yếu tố khác (thu nhập, số năm hoạt động kinh doanh) đều có những ảnh hưởng nhất định đến hành vi tuân thủ thuế.

2.4.6. Sự phát triển của hệ thống đại lý thuế

Đại lý thuế là tổ chức được thành lập theo quy định của pháp luật để thực hiện các dịch vụ về thuế để hưởng thù lao như: thay mặt NNT thực hiện các thủ tục về thuế (chuẩn bị hồ sơ khai thuế và thực hiện thủ tục kê khai thuế, nộp thuế, giải trình với CQT cho NNT…), tư vấn về thuế (tư vấn lựa chọn dự án đầu tư có lợi nhất về thuế, tư Trên phương diện tác động đến tính tuân thủ thuế, sự phát triển của hệ thống đại lý thuế giúp những NNT không am hiểu pháp luật thuế vẫn tuân thủ đúng pháp luật thuế do việc chuẩn bị hồ sơ khai thuế và thực hiện các thủ tục thuế được thực hiện bởi một tổ chức chuyên nghiệp về dịch vụ thuế. Như vậy, hệ thống đại lý thuế càng phát triển thì càng góp phần tích cực vào việc nâng cao tính tuân thủ của NNT. Tuy nhiên, tác động này sẽ chỉ thực sự được phát huy với điều kiện các đại lý thuế được quản lý chặt chẽ để đảm bảo các hành vi tư vấn để NNT vi phạm luật được kiểm soát và ngăn ngừa có hiệu quả.

2.4.7. Đặc điểm môi trường kinh tế - xã hội

Nhóm nhân tố này bao gồm các yếu tố như tốc độ tăng trưởng kinh tế, lãi suất, lạm phát, tình hình chính trị, ngoại giao… Đây là các yếu tố vĩ mô nên ảnh hưởng đến tính tuân thủ của tất cả các nhóm NNT. Thực tiễn cho thấy, khi nền kinh tế càng phát triển, kéo theo đó là mức sống dân cư tăng thì mức độ tuân thủ thuế có xu hướng tăng.

Các yếu tố xã hội cũng có ảnh hưởng đến tính tính tuân thủ thuế. Thuộc nhóm này có thể kể đến như: Chuẩn mực xã hội, ảnh hưởng xã hội và trách nhiệm của từng chủ thể trong một cộng đồng xã hội; dư luận xã hội, danh tiếng, vị thế và vai trò của từng chủ thể trong một cộng đồng xã hội.



13 Ảnh hưởng của các yếu tố này sẽ được trình bày cụ thể hơn ở mục 2.5.2


2.5. Mô hình nghiên cứu

2.5.2. Căn cứ xây dựng mô hình

Dựa trên mục tiêu nghiên cứu, câu hỏi nghiên cứu, cơ sở lý luận về tuân thủ thuế và kết quả tổng quan nghiên cứu, khoảng trống nghiên cứu, các căn cứ xây dựng mô hình nghiên cứu của luận án bao gồm:

Thứ nhất, Mô hình SSF về tuân thủ thuế là mô hình được nhiều nghiên cứu về hành vi TTT áp dụng từ năm 2010 đến hiện nay. Trong mô hình SSF cho rằng hành vi TTT được phân loại thành hành vi tuân thủ thuế tự nguyện và hành vi tuân thủ thuế bắt buộc. Đây cũng là hướng tiếp cận của luận án về hành vi tuân thủ thuế của người nộp thuế

Thứ hai, lý thuyết hành vi có kế hoạch (TPB) là lý thuyết được nhiều nghiên cứu về hành vi TTT của người nộp thuế áp dụng. TPB chỉ ra ý định của một cá nhân về một hành vi sẽ ảnh hưởng đến hành vi được thực hiện. Ý định thực hiện hành vi chịu ảnh hưởng bởi ba nhân tố: Thái độ với hành vi, chuẩn mực chủ quan và nhận thức kiểm soát hành vi. Trong khi nhận thức của người nộp thuế về tính công bằng của hệ thống thuế, quyền lực của cơ quan thuế, nhận thức về thuế... là sự hội tụ của quá trình nhận thức, thúc đẩy và các cảm xúc có liên quan đến hành vi tuân thủ thuế. Chính vì thế, yếu tố nhận thức kiểm soát hành vi thường không được áp dụng trực tiếp vào mô hình nghiên cứu về các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi TTT mà được thay bằng các yếu tố như nhận thức của người nộp thuế về tính công bằng của hệ thống thuế, quyền lực của cơ quan thuế, nhận thức về thuế. Vì thế, luận án sử dụng lý thuyết TPB với hai thành phần thái độ (tinh thần thuế), chuần mực chủ quan và mở rộng các yếu tố nhận thức (cảm nhận) về tính công bằng, quyền lực của cơ quan thuế, niềm tin vào cơ quan thuế, nhận thức về thuế, nhận thức về khả năng bị kiểm tra, thanh tra thuế, nhận thức về xử phạt, nhận thức về sự phức tạp về thuế đến hành vi TTT của người nộp thuế (gọi là lý thuyết TPB mở rộng thêm một số yếu tố).

Thứ ba, kết quả tổng quan nghiên cứu chỉ ra hướng nghiên cứu về hành vi tuân thủ thuế với đối tượng hộ KD cá thể (làm nghề và kinh doanh nghề tại các làng nghề) thì chưa được nghiên cứu nào thực hiện.

Thứ tư, kết quả của các nghiên cứu trước chưa hoàn toàn đồng thuận về ảnh hưởng (thuận chiều hoặc nghịch chiều; trực tiếp hoặc gián tiếp; hoặc chưa có cơ sở khẳng định về mối quan hệ) của các yếu tố (tinh thần thuế, chuẩn mực chủ quan, nhận thức về tính công bằng của hệ thống thuế, niềm tin vào CQ thuế, quyền lực của CQ thuế, nhận thức về thuế, sự phức tạp về thuế, thông tin về thuế, xử phạt, khả năng bị kiểm tra, thanh tra thuế, tuổi, giới tính, trình độ, thu nhập, số năm hoạt động KD) với hành vi TTT của người nộp thuế. Do đó, cần tiếp tục nghiên cứu ảnh hưởng của các

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 18/03/2023