Đóng Góp Về Tác Động Biến Động Tỷ Suất Sinh Lời Thị Trường Chứng Khoán Lên Hiệu Quả


lại mang tác động gây ra rủi ro gia tăng cho ngân hàng do khả năng quản trị chi phí không tốt của ngân hàng. Bên cạnh đó, luận án chưa phát hiện bằng chứng thống kê nào đủ mạnh để ủng hộ cho tác động của lạm phát và đa dạng hóa thông qua các hoạt động ngoài lãi lên rủi ro của ngân hàng.

5.2 Đóng góp của luận án


Dựa trên các kết quả ước lượng, luận án đưa ra một số đóng góp quan trọng ở một số khía cạnh chung như sau: (i) Kiểm chứng ảnh hưởng của SMV đến hiệu quả và rủi ro cũng như xem xét vai trò của quy mô đến ảnh hưởng này. Ảnh hưởng này tồn tại thông qua các kết quả có ý nghĩa thống kê, từ đó cung cấp thêm bằng chứng tại thị trường mới nổi của Việt Nam, đặc biệt là trong lĩnh vực ngân hàng vào kho tàng thực nghiệm. Kết quả này cũng giúp đánh giá hiệu lực giải thích từ quan điểm của các lý thuyết kinh tế đã có như lý thuyết triển vọng, lý thuyết bất ổn tài chính và lý thuyết quy mô ngân hàng tối ưu; (ii) Các thước đo khái niệm nghiên cứu (SMV, hiệu quả, rủi ro và quy mô) được chọn lọc và sử dụng đa dạng trong các ước lượng hồi quy phần nào khẳng định tính bền vững và nhất quán của kết quả ước lượng. Kết quả này được ước lượng từ phương pháp hồi quy dữ liệu bảng truyền thống và phương pháp hồi quy dữ liệu bảng động để kiểm soát quán tính của biến phụ thuộc; (iii) Kết quả nhất quán và không bị thiên lệch do vấn đề chọn mẫu các ngân hàng trên TTCK chuẩn hóa (HOSE và HNX) và TTCK chưa chuẩn hóa (UPCOM). Tác giả đưa ra phân tích cụ thể các đóng góp như sau:

5.2.1 Đóng góp về tác động biến động tỷ suất sinh lời thị trường chứng khoán lên hiệu quả

Nhánh nghiên cứu ảnh hưởng của hiệu quả lên giá trị của cổ phần của các tổ chức niêm yết và các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả của ngân hàng đã được nghiên cứu rộng rãi trong các công trình nghiên cứu thực nghiệm. Tuy nhiên, ở góc nhìn ảnh hưởng của SMV đối với hiệu quả, tác giả nhận thấy ít có công trình nghiên cứu trong thực nghiệm về chủ đề này, đặc biệt cho các ngân hàng niêm yết tại thị trường mới nổi. Và trong số


ít các nghiên cứu thực nghiệm này, chiều hướng tác động của SMV lên hiệu quả có kết quả khác biệt nhau. Hơn nữa, các nghiên cứu này được tiến hành khảo sát ở các nước phát triển và Trung Quốc. Kết quả nghiên cứu trong luận án cho thấy có bằng chứng thống kê ủng hộ cho quan điểm SMV có thể cải thiện hiệu quả hoạt động của các NH TMCP Việt Nam niêm yết trên TTCK. Đây là đóng góp có ý nghĩa cho kho tàng thực nghiệm còn khan hiếm về vai trò của SMV – được xem như là một trong các nhân tố ảnh hưởng quan trọng đến hiệu quả hoạt động của ngân hàng.

Thêm nữa, để có đạt được các kết quả như trên, tác giả khai thác đa dạng các thước đo hiệu quả. Theo đó, tác giả kết hợp các thước đo hiệu quả truyền thống (được sử dụng nhiều trong các công trình nghiên cứu mang tính thực nghiệm sẵn có) như hiệu quả sử dụng vốn (ROE), hiệu quả sử dụng tài sản (ROA) và tỷ lệ lãi cận biên (NIM) với thước đo hiệu quả mới ít được sử dụng nhưng có ý nghĩa như EVA (giá trị kinh tế gia tăng). Thước đo EVA này có tính toán đến chi phí vốn do đó phản ánh và đánh giá tính chất thực của thước đo về hiệu quả. Ngoài ra, tác giả sử dụng 2 cách tiếp cận đo lường SMV của các tác giả khác nhau trong cùng một chủ đề nghiên cứu để gián tiếp khẳng định tính bền vững của các kết quả ước lượng.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 186 trang tài liệu này.

5.2.2 Đóng góp về tác động biến động tỷ suất sinh lời thị trường chứng khoán lên rủi ro

Tác giả chưa phát hiện công trình khoa học nào đề cập đến ảnh hưởng của SMV đối với rủi ro. Tuy nhiên, cơ chế giải thích cho tác động này có thể được hàm ý thông qua lý thuyết bất ổn tài chính (financial instability hypothesis) của Minsky (1992) và quan điểm nghịch lý biến động trong nghiên cứu của Adrian và Shin (2014). Theo đó ứng dụng lý thuyết và quan điểm này vào lĩnh vực ngân hàng có thể thấy, SMV thấp làm gia tăng sự lạc quan khiến các ngân hàng chấp nhận thêm rủi ro thông qua hành vi nới lỏng cho vay và tham gia vào các hoạt động phi truyền thống của ngân hàng, từ đó khiến ngân hàng phải đối mặt với rủi ro tăng thêm. Kết quả này của luận án trái ngược với dự

Biến động tỷ suất sinh lợi thị trường chứng khoán, hiệu quả và rủi ro: Bằng chứng thực nghiệm từ các ngân hàng thương mại Việt Nam niêm yết - 18


đoán của lý thuyết và quan điểm này. Theo đó, SMV có thể tiềm tàng gây ra hiện tượng “truyền dẫn” một mức rủi ro nhất định vào khu vực ngân hàng. Một cách giải thích cho hiện tượng này là do khi SMV gia tăng, nhà đầu tư ngại rủi ro sẽ luân chuyển để dòng vốn đầu tư của họ chảy vào ngành ngân hàng. Tuy nhiên dòng vốn này có thể không ổn định cho tâm lý bất ổn của nhà đầu tư, từ đó có thể dẫn tới rủi ro cho ngân hàng. Mặt khác, các ngân hàng sẽ chuyển phần rủi ro này vào lãi suất cho vay khiến cho các chủ thể khác nhau trong nền kinh tế đang có nhu cầu về vốn sẽ hạn chế đi vay, từ đó có thể khiến cho ngân hàng gặp rủi ro về thanh khoản và theo đó là khả năng tạo lợi nhuận. Bằng chứng thực nghiệm và cách lý giải này cho tình huống các NH TMCP Việt Nam niêm yết là đóng góp tiếp theo của luận án vào kho tàng học thuật các chủ đề liên quan đến nhân tố ảnh hưởng đến rủi ro của ngân hàng.

5.2.3 Đóng góp về tác động biến động tỷ suất sinh lời thị trường chứng khoán lên hiệu quả và rủi ro xem xét theo quy mô ngân hàng

Yếu tố quy mô giữ vai trò thiết yếu trong năng lục vận hành của hệ thống ngân hàng. Theo đó, các ngân hàng lớn có thể có ưu thế về khả năng tiếp cận các nguồn vốn tốt hơn, có thể hưởng lợi từ tính kinh tế về mặt quy mô, có lợi thế trong quản trị điều hành, nhân sự và công nghệ. Vai trò của quy mô đối với rủi ro và hiệu quả của ngân hàng được quan tâm và nghiên cứu rộng rãi, tuy nhiên vai trò của quy mô và ảnh hưởng của nó đến tác động của SMV, hiệu quả và rủi ro còn khan hiếm trong các nghiên cứu thực nghiệm. Theo đó, tác giả nhận thấy chỉ có nghiên cứu của Rashid và Ilyas (2018) đề cập đến vai trò của quy mô trong ảnh hưởng của SMV đối với hiệu quả.

Bên cạnh đó, tác giả chưa phát hiện công trình khoa học nào cho thấy ảnh hưởng của SMV lên rủi ro trong điều kiện thay đổi quy mô của ngân hàng. Ngoài ra, tác giả còn bổ sung thêm biến giả quy mô bên cạnh biến quy mô theo cách tính logarit của tổng tài sản như thông thường để so sánh và làm bền vững thêm kết quả nghiên cứu. Ý nghĩa thống kê từ ước lượng cho thấy yếu tố quy mô có hàm ý quan trọng trong ảnh hưởng của


SMV đối với cả yếu tố hiệu quả và rủi ro. Theo đó, SMV có khả năng ảnh hưởng một cách tích cực lên hiệu quả hoạt động của các ngân hàng lớn; tuy nhiên lại gây ra rủi ro cho các ngân hàng này.

5.3 Hàm ý của luận án


5.3.1 Hàm ý về tác động biến động tỷ suất sinh lời thị trường chứng khoán lên hiệu quả

Kết quả nghiên cứu của luận án cho thấy SMV có tác động tích cực lên hiệu quả của NH TMCP niêm yết tại thị trường Việt Nam. Kết quả này được giải thích thông qua sự dịch chuyển dòng vốn vào hệ thống ngân hàng khi vốn đầu tư của các nhà đầu tư có thể gặp rủi ro khi SMV gia tăng. Dòng vốn này giúp ngân hàng cải thiện khả năng tạo ra thanh khoản cũng như nâng cao hiệu quả vận hành của nó.

Để đảm bảo cho ảnh hưởng tích cực này xảy ra, một số hàm ý tác giả đề xuất như sau. Dòng vốn của nhà đầu tư chảy vào ngân hàng – đóng vai trò quan trọng là kênh đầu tư an toàn và có mức sinh lợi hợp lý. Tuy nhiên, việc sử dụng nguồn vốn này để nâng cao hiệu quả phụ thuộc vào năng lực vận hành của các ngân hàng. Theo đó, các ngân hàng nên thường xuyên theo dõi tín hiệu từ SMV để có phương án phù hợp cho việc hấp thụ và sử dụng các nguồn vốn nhàn rỗi luân chuyển từ nhà đầu tư trong thời kỳ SMV gia tăng.

Đối với các nhà quản lý ngân hàng, thông thường đối với ngân hàng niêm yết, các nhà quản trị thường quan tâm đến giá chứng khoán trên thị trường vì nó phản ánh một phần nào đó tiềm năng tăng trưởng của ngân hàng cũng như sự đánh giá của nhà đầu tư về hoạt động và rủi ro của các ngân hàng. Do vậy, bên cạnh thông tin từ tỷ suất sinh lợi từ chứng khoán niêm yết của cổ phiếu ngân hàng, việc theo dõi tín hiệu từ thị trường thông qua SMV sẽ là thông tin hữu ích và cần thiết để có thể dự báo được sự dịch chuyển các dòng vốn. Để có thể thu hút nguồn vốn này bản thân các ngân hàng cần có sự hấp


dẫn trong chính sách lãi suất huy động và có khả năng linh hoạt điều chỉnh lãi suất phù hợp với mặt bằng lãi suất chung để có thể vừa thu hút được nhiều vốn và vừa đảm bảo mức chi phí hợp lý để chi trả cho lãi suất huy động.

Các nghiên cứu trước đã đề cập đến hiện tượng các ngân hàng chuyển phần rủi ro cho các khách hàng đi vay trong thời kỳ SMV gia tăng. Hành vi này có thể gây ra sự e ngại của các khách hàng đi vay do phải gánh chịu phần lãi suất cao hơn do ngân hàng đòi hỏi một phần bù rủi ro nhất định từ rủi ro của SMV. Điều này cho thấy các ngân hàng huy động nhiều tuy nhiên có thể sụt giảm khách hàng có nhu cầu vay vốn, từ đó ảnh hưởng đến hiệu quả của ngân hàng. Do đó, các ngân hàng cần cân nhắc thêm yếu tố này để cân đối hài hòa lợi ích của mình và khách hàng từ đó đảm bảo việc vận hành của ngân hàng trở nên hiệu quả hơn.

5.3.2 Hàm ý về tác động biến động tỷ suất sinh lời thị trường chứng khoán lên rủi ro


Không chỉ có tác động đối với hiệu quả, SMV có thể gây ra rủi ro cho ngân hàng. Khi SMV gia tăng, dòng vốn sẽ dịch chuyển về kênh ngân hàng vì mức rủi ro thấp và an toàn vốn cho các nhà đầu tư. Tuy nhiên, tâm lý bất ổn của nhà đầu tư gây ra một số rủi ro nhất định cho ngân hàng đối với nguồn vốn khả dụng này. Do đó, ổn định tâm lý nhà đầu tư là vấn đề quan trọng, không chỉ đảm bảo ổn định thị trường chứng khoán mà còn hạn chế được rủi ro đối với các dòng vốn ngân hàng hấp thụ.

Để đạt được sự ổn định về tâm lý nhà đầu tư với các dòng vốn, vai trò của nhà điều hành TTCK và các bên liên quan trong hoạch định chính sách là vô cùng thiết yếu. Bằng các chính sách ổn định và theo sát diễn biến thị trường thông qua SMV, nhà điều hành TTCK có thể thực hiện vai trò điều tiết, thông tin kịp thời và can thiệp đối với dòng vốn biến động bất thường. Ngoài ra, còn cần kiểm soát chất lượng và tính minh bạch của các loại chứng khoán được phép niêm yết và giao dịch trên thị trường để từ đó cung cấp môi trường đầu tư ổn định và tranh khỏi sự thâu tóm thị trường. Việc làm này là hết sức quan


trọng vì SMV có thể có tác động “truyền dẫn” một rủi ro nhất định nào đó cho hệ thống các NH TMCP niêm yết.

Ngoài ra, sự bất ổn còn đến từ việc các nhà đầu tư có nhiều sự lựa chọn các kênh đầu tư sinh lời khác, do đó bản thân các ngân hàng bên cạnh việc theo dõi tín hiệu từ SMV cần phải có sự hấp dẫn trong việc thu hút các nguồn vốn đầu tư và thỏa mãn cũng như thấu hiểu tâm lý không thích rủi ro của các nhà đầu tư. Bên cạnh đó, nhà nước cần có chính sách để kiểm soát và minh bạch hóa hơn nữa thông tin trên thị trường chứng khoán, để giúp thị trường chứng khoán không biến động quá mức gây ảnh hưởng tiêu cực đến ngân hàng và tổng thể nền kinh tế.

5.3.3 Hàm ý về tác động biến động tỷ suất sinh lời thị trường chứng khoán lên hiệu quả và rủi ro trong điều kiện thay đổi quy mô của ngân hàng

Quy mô ngân hàng đóng vai trò quan trọng ảnh hưởng của SMV đối với rủi ro và hiệu quả của ngân hàng. Theo kết quả nghiên cứu của luận án đối với phạm vi 24 NH TMCP Việt Nam được niêm yết trên TTCK, các ngân hàng có quy mô lớn sẽ hưởng lợi tốt hơn từ SMV gia tăng xét về tính hiệu quả, do vậy các chính sách kinh tế nên khuyến khích các ngân hàng tăng trưởng quy mô ở mức độ phù hợp để hưởng lợi tốt hơn nữa sự biến động này. Kết quả này ủng hộ phần nào cho quan điểm của các nhà làm chính sách luôn mong muốn thúc đẩy quy mô ngân hàng phát triển mạnh hơn nữa, trong bối cảnh thị trường cạnh tranh ngày càng gia tăng, dòng vốn luân chuyển linh hoạt và khó lường để tìm nơi sinh lời phù hợp một phần để thích ứng với rủi ro vĩ mô ngày một gia tăng (phát sinh từ sự bất ổn của tỷ suất sinh lợi TTCK - đóng vai trò tín hiệu rủi ro vĩ mô quan trọng).

Ngoài ra, tác động “truyền dẫn” rủi ro từ SMV lên rủi ro của ngân hàng cho thấy quy mô ngân hàng lớn dẫn tới rủi ro gia tăng do ngân hàng chấp nhận rủi ro nhiều hơn. Vì vậy, chính sách giúp thúc đẩy gia tăng quy mô là tốt cho ngân hàng nhưng phải phù hợp với hành vi và khả năng chấp nhận thêm các loại rủi ro của ngân hàng. Theo đó, các


nhà quản trị ngân hàng bên cạnh việc theo dõi sát thay đổi trong SMV còn cần phải kiểm soát yếu tố về tăng trưởng quy mô của ngân hàng. Theo đó, tăng trưởng quy mô cần phải dung hòa được yếu tố về chất lượng tăng trưởng để có thể hấp thụ và quản lý tốt dòng vốn biến động trong thời kỳ SMV gia tăng.

5.4 Hạn chế của luận án và hướng nghiên cứu tiếp theo


5.4.1 Hạn chế của luận án


Bên cạnh các đóng góp quan trọng, luận án không thể kiểm soát được một số hạn chế, cụ thể như sau:

Thứ nhất, trong phạm vi nghiên cứu, tác giả lập luận về việc giới hạn dữ liệu vào 24 ngân hàng niêm yết vì biến động tỷ suất sinh lợi thị trường phản ánh rủi ro tổng thể của thị trường chứng khoán và biến động này có ảnh hưởng trực tiếp lên các NH TMCP Việt Nam được niêm yết trên TTCK. Mặc dù 24 ngân hàng chiếm tỷ trọng cao trong thị phần và quy mô tài sản của ngành ngân hàng tuy nhiên để có sự so sánh một cách khách quan và kết luận toàn diện hơn, tác giả nhận thấy cần phải mở rộng bộ dữ liệu cho nhiều loại hình ngân hàng khác chưa được niêm yết trên sàn chứng khoán để có sự so sánh và hàm ý bằng chứng thực nghiệm mang tính đại diện hơn và kiểm soát được tính đa dạng trong cách thức vận hành của các ngân hàng khác nhau.

Thứ hai, về cơ chế giải thích cho ảnh hưởng của SMV, hiệu quả và rủi ro ngân hàng, tác giả lập luận chủ yếu dựa vào các quan điểm khác nhau có liên quan đến sự luân chuyển luồng vốn từ TTCK vào hệ thống ngân hàng. Cụ thể, khi SMV gia tăng, dòng vốn sẽ dịch chuyển từ TTCK sang hệ thống ngân hàng do các nhà đầu tư nhận thấy tín hiệu cho một mức rủi ro nhất định gia tăng, có ảnh hưởng đến rủi ro an toàn vốn và lợi nhuận của họ. Cơ hội gia tăng cho các ngân hàng đối với việc được sử dụng nguồn vốn khả dụng này để tài trợ cho các hoạt động sinh lợi của ngân hàng và thanh khoản của ngân hàng sẽ trở nên tốt hơn. Tuy nhiên, dòng vốn này bất ổn do có yếu tố tâm lý của


nhà đầu tư hoặc do có các kênh đầu tư khác sinh lợi tốt hơn và rủi ro thấp hơn. Cách giải thích này có thể chưa đầy đủ để giải thích quan hệ SMV, hiệu quả và rủi ro vì có thể tùy thuộc vào hành vi của từng ngân hàng hoặc các kênh đầu tư khác có thể hấp dẫn các dòng vốn này hơn dù hệ thống các ngân hàng ở Việt Nam vẫn được xem là ưu tiên hàng đầu trong việc đảm bảo an toàn vốn và mức sinh lời hợp lý cho các nhà đầu tư.

Thứ ba, mặc dù thực hiện nghiên cứu tại Việt Nam giúp cung cấp các hàm ý về chính sách và những điều chỉnh mô hình phù hợp với bối cảnh thực tế vận hành của ngành ngân hàng Việt Nam, tuy nhiên để đảm bảo khả năng so sánh và tính tổng quát hóa của kết quả nghiên cứu trong luận án, nhu cầu thực tế phát sinh là cần phải thực hiện quy trình nghiên cứu tương tự cách tiếp cận của luận án này trên một nhóm các quốc gia mới nổi khác hoặc ở nhiều thị trường khác nhau. Theo đó, do hạn chế về số liệu, bài nghiên cứu chỉ dừng lại ở ngành ngân hàng Việt Nam.

5.4.2 Hướng nghiên cứu tiếp theo


Dựa vào các hạn chế trên của luận án, một số định hướng có thể khai thác để có thể nghiên cứu mở rộng trong các công trình khoa học tiếp theo như sau:

Thứ nhất, các công trình nghiên cứu kế tiếp có thể phát triển mẫu nghiên cứu ở phạm vi rộng hơn (ví dụ thêm vào các ngân hàng chưa niêm yết) để có cơ sở chia tách mẫu nghiên cứu với động cơ so sánh ảnh hưởng của SMV đối với rủi ro và hiệu quả giữa các ngân hàng niêm yết và chưa niêm yết có khác biệt hay không. Điều này có thể phụ thuộc vào việc tìm biến đo lường cho SMV phù hợp cho mẫu gồm có các ngân hàng chưa niêm yết trên sàn chứng khoán và các ngân hàng đã được công khai niêm yết trên TTCK.

Thứ hai, dựa trên kết quả thực nghiệm của luận án, các công trình khoa học trong tương lai gần có thể thiết kế nghiên cứu theo hướng định tính để khảo sát ý kiến của các nhà quản lý trực tiếp vận hành các hoạt động ngân hàng hoặc chuyên gia về các nguyên nhân cốt lõi dẫn tới ảnh hưởng của SMV đối với hiệu quả hoạt động và rùi ro, đề từ đó

Xem tất cả 186 trang.

Ngày đăng: 11/03/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí